vịt xám đầu xám

Thông tin cơ bản

Phân loại khoa học

Tên khoa học: Tadorna cana

Tên khác: Vịt xám đầu, vịt Shelduck Nam Phi

Chất lượng: Chim nước

Họ: Họ Vịt

Dữ liệu đặc điểm

Chiều dài: 61-66 cm

Cân nặng: 1.229-1.527 kg

Tuổi thọ: Chưa có dữ liệu chứng minh

Đặc điểm nổi bật

Đuôi, hai bên và bụng của vịt trưởng thành chủ yếu có lông màu cam đỏ, trong khi đầu có màu xanh xám, phần dưới phức tạp hơn, ngực có màu nhạt.

Giới thiệu chi tiết

Vịt xám đầu (Tên khoa học: Tadorna cana) không phân loại rất rõ ràng.

Vịt xám đầu Nam Phi

Vịt xám đầu thường sống trong một khu vực trong phần lớn thời gian trong năm, thỉnh thoảng di cư. Đây là một loài xã hội. Trong mùa sinh sản, chúng tập trung thành đàn lớn, có khi lên đến hàng trăm con để di cư về phía đông bắc nhằm thay lông. Thời gian này tương đối ngắn, sau khi có lông mới, chúng quay trở lại nơi sống ở tây nam. Khoảng cách di chuyển thường không quá 1000 km. Thường tìm thức ăn vào ban đêm, những con vịt này tụ tập trên một hòn đảo nhỏ hoặc bên một hồ nước, với hành vi cẩn thận. Trong mùa sinh sản, chúng sống theo cặp, trong mùa không sinh sản, chúng sống theo nhóm gia đình và nhỏ, đôi khi cũng tụ tập thành đàn lớn với vài chục, thậm chí gần trăm con. Chúng rất đề phòng, khó tiếp cận. Vịt xám đầu chủ yếu ăn lá, chồi, hạt, mầm cây của các loại thực vật thủy sinh, cũng như một số động vật như côn trùng, giáp xác, động vật thân mềm, tôm, ếch nước, giun đất, và các loại cá nhỏ. Thức ăn chủ yếu xảy ra vào lúc hoàng hôn và sáng sớm, đôi khi chúng cũng kiếm ăn vào ban ngày, đặc biệt là trong mùa thu và đông, thường thấy từ vài đến hơn 20 con nhỏ gom lại kiếm ăn trên ruộng lân cận, cũng tìm kiếm thức ăn ở những vùng nước nông và trên mặt nước.

Vịt xám đầu có mùa sinh sản từ tháng 5 đến tháng 7 trong mùa khô. Chúng thường làm tổ trên các đồng cỏ bằng phẳng trong các hồ nước vĩnh cửu, vùng nước ngọt hoặc mặn, và nơi gần hồ trên cao. Liên kết cặp đôi được duy trì lâu dài, cặp đôi sống chung thủy. Hoạt động giao phối diễn ra dưới nước hoặc trên cạn, tổ được làm trên đồng cỏ rộng rãi, trong các hang tự nhiên hoặc hang bỏ hoang của động vật khác, các lỗ và hố đất trên đảo hồ và giữa các ngọn đồi. Tổ được làm bằng một lượng cỏ khô và nhiều lông tơ. Số trứng từ 7 đến 15 quả. Mặc dù con cái tự chăm sóc, con đực vẫn bảo vệ khu vực xung quanh tổ, thể hiện tính lãnh thổ rất mạnh, khi gặp nguy hiểm sẽ kêu to cảnh báo, thỉnh thoảng con đực còn bay đến kẻ xâm phạm với tư thế tấn công để dọa dẫm. Khi rời tổ, con cái che trứng bằng lông tơ và sau đó ra ngoài kiếm ăn cùng với con đực. Sau khi kiếm ăn, con đực lại bay về cùng con cái trở lại tổ trước khi rời đi để bảo vệ tổ gần con cái. Thời gian ấp khoảng 30 ngày, những con non nở ra sẽ bơi cùng mẹ trong các ao và suối, và khi thấy người, chúng sẽ ngay lập tức trốn vào bụi cỏ ven bờ. Những con non này trưởng thành nhanh chóng, chúng đã có lông tơ ngay sau khi nở và có khả năng bơi và lặn. Có tài liệu cũng cho biết rằng những con non thường được đưa từ khu vực tổ đến khu vực nước bởi các bậc phụ huynh. Khi bơi dưới nước, chúng thường trèo lên lưng các bậc phụ huynh để chơi. Sau 70 ngày, những con non đã có khả năng bay.

Được liệt kê trong danh sách đỏ các loài bị đe dọa của “Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới” (IUCN) năm 2012 – ít nguy cấp (LC).

Bảo vệ động vật hoang dã, không sử dụng thịt hoang dã.

Bảo vệ cân bằng sinh thái, trách nhiệm của mọi người!

Phân bố

Phân bố tại khu vực trung nam châu Phi, cụ thể ở tỉnh Cape Town, Free State, miền nam Transvaal, bắc đến miền nam Botswana và Namibia, đông đến KwaZulu-Natal. Chúng sinh sống trong các môi trường khác nhau như sông, hồ, cửa sông, ao và các đồng cỏ, đất hoang, đầm lầy, bờ biển, ruộng vườn và đồng rừng thông thoáng. Chúng đặc biệt thích các hồ nước trên các đồng bằng. Chủ yếu sống ở các vùng nước ngọt nội địa, đôi khi cũng xuất hiện trên bờ biển và khu vực hồ nước mặn và trên các đồng cỏ có khoảng cách xa với nguồn nước.

Tính cách và hình thái

Vịt xám đầu có chiều dài 61-66 cm, cân nặng từ 1229g đến 1527g. Đuôi, hai bên và bụng của vịt trưởng thành chủ yếu có lông màu cam đỏ, đầu có màu xanh xám, phần dưới phức tạp hơn, ngực có màu nhạt. Vào mùa sinh sản, con đực có đầu và cổ màu xanh xám đẹp mắt, ngực và đuôi có màu vàng, hai bên và phần dưới là nâu, cam, bụng sẫm hơn. Phần trên cơ thể chủ yếu có màu nâu đỏ, sắc thái nhẹ hơn. Đuôi có màu đen. Cánh có lông màu nâu đỏ, dưới có màu trắng, tạo sự tương phản với lông màu đen trên cánh chính. Lông trên các cánh phụ có gương xanh. Con đực không có màu lông sặc sỡ trong mùa ngoài sinh sản. Ngực của con cái có màu vàng nâu, sáng hơn một chút so với con đực. Đầu có màu xám trắng, với sự phân bố không đều ở vùng má, đôi khi chỉ giới hạn quanh mắt, nhưng cũng có con chiếm gần như toàn bộ đầu. Mỏ, chân và bàn chân của cả con đực và con cái đều có màu đen. Một số con cái khác có chân màu hồng.

Câu hỏi thường gặp