Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: vịt đen, Tên khoa học: Somateria mollissima, Common Eider, Lớp: Chim nước, Bộ: Anseriformes, Họ: Anatidae, Chi: Somateria
Dữ liệu hình thể
Chiều dài: 50-70 cm, Cân nặng: 1.2-2.8 kg, Tuổi thọ: khoảng 18 năm
Đặc điểm nổi bật
Một loài chim có kích thước lớn và mập mạp trong họ vịt
Giới thiệu chi tiết
Vịt đen (Tên khoa học: Somateria mollissima) có tên tiếng Anh là Common Eider, có 6 phân loài.
Vịt đen là loài vịt biển lớn nhất, một số loài có hành vi di trú. Giống như các loài vịt đen khác, loài này có nguồn gốc từ các vùng cực bắc. Chúng sinh sản ở những vùng ven biển đóng băng, từ Hà Lan và vịnh Saint Lawrence; mùa đông di trú xuống phía nam đến Pháp, New England và quần đảo Aleutian.
Suốt bốn mùa, vịt đen ăn các động vật không xương sống như động vật nhuyễn thể, giun, giáp xác. Chúng lấy phần lớn thức ăn từ đáy biển, vì vậy thích bơi lội trong các vùng nước nông ven lục địa.
Các con vịt đực thích phát ra những âm thanh giống như tiếng bồ câu hoặc tiếng “kor-er-korkorr-kor”, đôi khi chúng phát ra âm thanh than thở. Vịt cái phát ra âm thanh tương tự như vịt và trong mùa đông thì chúng im lặng.
Mỗi năm vào cuối mùa hè, các đảo ở vùng Bắc Cực bao quanh bởi nước, lúc này vịt đen bắt đầu xây tổ sinh sản trên các đảo, tổ thường được xây dưới những bản gỗ trôi hoặc một cụm cỏ biển để tránh gió. Vịt cái sử dụng rất nhiều cành, lá, cỏ, tảo để làm lớp lót bên trong tổ. Tổ được đặt ở nơi ẩn nấp dưới đá hoặc cây cối. Ban ngày, chúng kiếm ăn dưới thủy triều, lặn ở độ sâu 10-18m, sử dụng cánh để vẫy nước dưới nước, và bay lên mặt nước bằng cánh. Chúng có thể nghiền nát vỏ sò và các khoang cát. Mỗi tổ vịt cái đẻ từ 1-10 quả (trung bình 5 quả), vỏ trứng có màu xanh ô liu nhạt, có màu nâu ô liu và xám ô liu, chiều dài trứng là 7.6cm. Thật đáng kinh ngạc: khu vực làm tổ của vịt đen rất gần với tổ của một loại hải âu, mà loại hải âu này có rất ít mối quan hệ thân thiện, là kẻ săn lùng trứng và vịt con của vịt đen. Vịt đen thích ở gần loại hải âu này nhờ sức mạnh của chúng để xua đuổi những kẻ thù mạnh hơn như hải âu đen và cá hổ.
Vịt đen là loài một vợ một chồng, vịt cái ấp trứng từ 21-28 ngày. Trong thời gian này, vịt cái ít khi rời khỏi khu vực tổ của mình, chỉ tập trung vào việc sinh sản. Sau khi trứng nở, những vịt con được dẫn dắt bởi vịt cái ra biển, vừa vui chơi vừa không ngừng lặn xuống nước để tìm thức ăn. Trong điều kiện bình thường, vài gia đình vịt con sẽ sống chung với nhau, giống như một mẫu giáo. Sau 56 ngày, chúng bắt đầu bay, đến tháng 9, chúng sẽ bay về hướng tây, di trú vào biển Bering và vịnh Alaska để qua đông.
Tại Iceland, vịt đen được bảo vệ nghiêm ngặt. Các yếu tố gây tổn hại bao gồm dễ bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm dầu, con người săn vịt cái vì giá trị của lông vịt, và săn bắn thái quá ở vòng Bắc Cực. Đây là nguồn cung cấp lông vịt (người ta sẽ xé lông trên ngực của vịt cái khi chúng rời tổ để làm lớp lót cho trứng). Lông vịt có thể được sử dụng để làm áo khoác, gối, chăn, túi ngủ và lớp cách nhiệt cho quần áo, mềm mại và giữ ấm, lông vịt cái mềm mại nhất. Con người đã học cách tốt hơn để thu thập lông vịt mà không cần giết vịt, bằng cách tấn công 35-40 tổ một cách nhanh chóng khi vịt con rời tổ, mỗi 35-40 tổ có thể thu được 1 pound lông mà không ảnh hưởng đến chu kỳ sinh sản của chúng.
Được liệt kê trong Danh sách Đỏ các loài bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) năm 2013 – ít nguy cơ (LC).
Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn thịt hoang dã.
Bảo vệ cân bằng sinh thái, trách nhiệm của mọi người!
Phạm vi phân bố
Nơi xuất xứ: Áo, Belarus, Bỉ, Bulgaria, Canada, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Estonia, Quần đảo Faroe, Phần Lan, Pháp, Đức, Greenland, Iceland, Ireland, Italy, Latvia, Liechtenstein, Lithuania, Macedonia, Hà Lan, Na Uy, Ba Lan, Romania, Liên bang Nga, Saint Pierre và Miquelon, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Quần đảo Svalbard và đảo Jan Mayen, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Ukraine, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ. Những loài di trú: Bosnia và Herzegovina, Croatia, Georgia, Hy Lạp, Hungary, Israel, Nhật Bản, Luxembourg, Montenegro, Portugal, Serbia, Thổ Nhĩ Kỳ. Trong thời gian sinh sản, chúng chủ yếu sinh sống ở các khu rừng và gần sông, hồ, khu cửa sông và các vùng nước cao nguyên mở. Trong thời gian không sinh sản, chúng chủ yếu sinh sống ở các hồ nội địa lớn, sông, hồ chứa, ao, và các vùng nước ngọt khác, thỉnh thoảng đến các vịnh, cửa sông và vùng nước ven biển.
Tính cách và hình thái
Vịt đen dài 50-70 cm, sải cánh 80-108 cm, nặng 1200-2800g, tuổi thọ 18 năm. Vịt đen có 6 phân loài, khác nhau chủ yếu ở độ dài và màu sắc của mỏ, bộ lông của con đực có màu sắc khác nhau, trên đầu có tông màu xanh độc đáo. Chúng phân bố ở Alaska, đông bắc Siberia, tây bắc Canada thuộc loài vịt biển Thái Bình Dương, có thể phân biệt dựa vào kích thước lớn, hình dạng mỏ và dấu “V” trên cổ con đực. Bộ lông trên cơ thể của con đực chủ yếu là màu trắng, đầu, bụng và đuôi có màu đen. Chúng có thân hình lớn và tròn, mỏ có phần nhô lên. Vào mùa xuân, vịt đen đực có bộ lông trắng đen rõ rệt. Hình dáng của vịt cái và vịt đực khác nhau, vịt cái phần lớn có màu nâu và giống vịt cỏ, vịt con thì không có sự khác biệt lớn về giới tính.