Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Thỏ Tarimu Tên khác: Thỏ Nam Tân, Thỏ Shache, Thỏ hoang Ngành: Thỏ Họ: Thỏ
Dữ liệu đặc điểm
Chiều dài cơ thể: 29-43 cm Cân nặng: 1.2-1.6 kg Tuổi thọ: 5-12 năm
Đặc điểm nổi bật
Là loài đặc hữu của vùng trũng Tarimu, cũng là loài còn lại của khối đại lục Tarimu cổ đại.
Giới thiệu chi tiết
Thỏ Tarimu, tên khoa học Yarkandhare, là loài điển hình của vùng sa mạc.
Sau khi dãy Himalaya nổi lên, các dãy núi như Kunlun, Altai và Qilian cũng đã nâng cao, kết hợp với sự liên kết của khối đại lục Á-Âu, diện tích đất liền đã tăng lên, làm cho dòng hải lưu ấm ẩm Ấn Độ Dương bị cản trở, khí hậu ở vùng trũng Tarimu ngày càng trở nên khô hạn. Thỏ Tarimu, dù nằm trong khu vực cổ bắc, nhưng lại thuộc về khu vực Đông Á, nằm trong thành phần của khu vực Đông Á trong khu vực cổ bắc.
Thỏ Tarimu thường hoạt động vào buổi sáng và chiều tối, nhưng có sự thay đổi nhất định theo mùa. Vào mùa đông, để tránh kẻ thù, chúng chỉ ra ngoài tìm thức ăn trước bình minh và sau hoàng hôn, chủ yếu hoạt động ở những vùng đụn cát mềm có cây liễu đỏ, đào rễ của các loại thực vật như sậy, cây đinh lăng, cam thảo, gai camel hoặc các loại khác để làm thức ăn, vào ban ngày thì ẩn nấp dưới bụi cây. Vào mùa hè, thỏ thường ra ngoài hoạt động vào ban ngày. Bộ phận thính giác phát triển rất tốt, tai dài tới 10 cm, vượt xa các loài thỏ khác.
Mùa hè là mùa sinh sản của thỏ Tarimu, các cá thể đực và cái sẽ theo đuổi nhau từ tháng 2 đến tháng 7. Mỗi năm, cái sinh ra 2-3 lứa, mỗi lứa có từ 2-5 con. Những chú thỏ sơ sinh đều có lông, mở mắt và có thể di chuyển, thời gian cho bú chỉ từ 3-5 ngày, sau đó có thể rời mẹ để sống độc lập.
Theo ước tính vùng ngoại ô các huyện còn lại quanh vùng trũng Tarimu có khoảng 10.000 con thỏ Tarimu còn tồn tại, số lượng khoảng 200.000 con.
Nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm số lượng thỏ Tarimu từng năm chủ yếu là do dân số tăng nhanh, diện tích đất nông nghiệp và khối lượng giao thông ngày càng tăng, hoạt động săn bắn diễn ra thường xuyên. Vì vậy, so với trước đây, gần như tất cả các thành phố hoặc khu vực xung quanh các huyện thuộc Nam Tân đều hiếm thấy thỏ Tarimu. Bên cạnh đó, môi trường sống và khu phân bố của thỏ Tarimu rất hạn chế, sự can thiệp của con người và sự phá hủy môi trường sống dễ dàng gây ra mối đe dọa trực tiếp đến sự sống còn của thỏ Tarimu. Vì thỏ Tarimu là loài đặc hữu của Trung Quốc và có phạm vi phân bố hạn chế cùng giá trị nghiên cứu nhất định, cần tiến hành nghiên cứu điều tra tình trạng quần thể và các vấn đề sinh thái sinh học của chúng, nhằm cung cấp cơ sở lý thuyết cho việc quản lý khoa học và sử dụng hợp lý trong tương lai.
Được liệt kê trong Sách Đỏ về động vật nguy cấp của Trung Quốc: dễ bị tổn thương.
Được liệt kê trong danh sách IUCN: LR/nt (gần nguy cấp).
Được liệt kê trong “Danh sách động vật hoang dã được bảo vệ đặc biệt của Trung Quốc”: cấp độ 2.
Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn việc tiêu thụ thịt hoang dã.
Bảo vệ sự cân bằng sinh thái, mọi người đều có trách nhiệm!
Phạm vi phân bố
Thỏ Tarimu không có phân loài, là loài đặc sản của đất nước, phân bố ở vùng trũng Tarimu và khu vực Hồ Rubuq, có vùng phân bố dạng vòng cung, bao gồm các khu vực Aksu, Ruoqiang, Milan, Alagan, Weili, Korla, Bachu, Qiemo, Shache, Hetian, Kashgar và các khu vực khác. Thỏ Tarimu sống ở độ cao 900-1200 mét gần các con sông tại vùng trũng Tarimu và khu vực bên cạnh Hồ Rubuq, cũng như trong rừng cây dương và liễu hai bên bờ và dọc theo vùng đồng cỏ bán sa mạc và khu vực xung quanh sa mạc Taklamakan.
Tập tính hình thái
Có hình dáng nhỏ gọn, màu lông nhạt, chiều dài cơ thể từ 29-43 cm, chiều dài đuôi từ 6-11 cm, cân nặng từ 1.2-1.6 kg. Sử dụng đôi tai dài để phát hiện âm thanh yếu từ khoảng cách xa, kịp thời phát hiện và thoát khỏi kẻ thù. Lông ngắn và thẳng, vào mùa đông có màu rất nhạt, từ đầu, lưng đến phía sau đuôi đều có màu nâu nhạt. Vào mùa hè, lưng có màu nâu cát, pha trộn với các đốm xám đen, bên hông có màu vàng cát, cằm, cổ và bụng có màu trắng. Màu sắc đầu và mặt tương tự như lưng, má có màu nhạt hơn, quanh mắt có màu đậm, có màu nâu cát đậm. Dưới cổ có một dải màu vàng cát. Màu sắc mặt trên của đuôi tương tự như lưng, phần dưới bụng có màu trắng. Màu lông vào mùa đông rất nhạt, từ đầu, lưng đến phía sau đuôi đều có màu nâu nhạt. Cái có 3 cặp núm vú, 2 cặp ở ngực, 1 cặp ở bụng.