Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Sói đỏ
Tên khác: Sói đỏ Bắc Mỹ
Lớp: Động vật ăn thịt
Bộ: Nanh chân
Họ: Chó
Dữ liệu cơ thể
Chiều dài cơ thể: 95-120 cm
Cân nặng: 20-35 kg
Tuổi thọ: 4-14 năm
Đặc điểm nổi bật
Vào mùa đông, các yếu tố màu đỏ trong bộ lông chiếm ưu thế.
Giới thiệu chi tiết
Sói đỏ (tên khoa học: Canis rufus) là một loài động vật thuộc họ chó sống ở Bắc Mỹ, có bốn phân loài.
Sói đỏ giao tiếp với nhau qua tín hiệu xúc giác, thính giác, ngôn ngữ cơ thể, pheromone và âm thanh, giúp trao đổi thông tin về trạng thái xã hội, sinh sản và cảm xúc. Mối liên kết xã hội thường được thiết lập thông qua việc chạm vào nhau. Họ đầu tiên sử dụng mùi để xác định lãnh thổ.
Sói đỏ cần từ 10 đến 100 dặm vuông để sinh sống và săn bắn, thường săn trong một khu vực nhất định trong 7 đến 10 ngày, sau đó chuyển sang khu vực mới. Thức ăn chủ yếu bao gồm gà rừng, gấu trúc, thỏ, chuột, xác thối và động vật trong chăn nuôi, cũng như xác thối. Kẻ thù tự nhiên của sói đỏ là những động vật lớn khác như cá sấu, chim ăn thịt lớn và báo sư tử.
Trong một bầy sói đỏ, thường có một cặp đang giao phối và nuôi con, sống hòa thuận, âm thanh của chúng có tần suất và cường độ nằm giữa sói xám và sói nâu. Sói đỏ xây dựng hang hoặc chiếm giữ các hang đã được sử dụng bởi động vật khác trong phạm vi hoạt động của chúng. Những ổ này thường nằm trong các thân cây rỗng, cát và ven sông ở những khu vực thảm thực vật dày đặc. Mùa sinh sản diễn ra vào mùa xuân, từ tháng Giêng đến tháng Ba. Thời gian mang thai là 60-63 ngày, trung bình mỗi lứa có từ 3-6 cục con, tối đa lên đến 12 cục con. Chúng thường đạt độ trưởng thành vào khoảng 15-20 tháng. Sói đỏ là loài động vật xã hội, mỗi bầy có lãnh thổ riêng. Khu vực lãnh thổ được đánh dấu bằng mùi. Trong một bầy chỉ có một cặp sói đỏ sinh sản. Các thành viên khác trong bầy sẽ giúp trưởng bầy nuôi dưỡng những cục con.
Giữa năm 1900 và 1920, số lượng sói đỏ bị săn đuổi bởi con người là lớn nhất, họ sử dụng thuốc độc, săn bắn và bắt giữ, gây ra tổn thất nghiêm trọng cho số lượng sói đỏ ở Đông Hoa Kỳ. Đến năm 1980, sói đỏ từng chiếm gần như toàn bộ miền Đông Nam Hoa Kỳ đã được tuyên bố tuyệt chủng trong môi trường hoang dã. Cuối những năm 1970, có 14 con sói đỏ được phát hiện trong tự nhiên và đã được nhân giống trong môi trường nuôi giữ để bảo vệ gen thuần chủng. Kể từ năm 1987, hàng trăm con sói đỏ đã được thả lại vào tự nhiên. Tuy nhiên, chúng vẫn bị một số người coi là những kẻ xâm lược không cần thiết và bị săn đuổi. Hơn nữa, nguy cơ lai tạp với sói vẫn còn tồn tại. Do việc thả sói đỏ vào tự nhiên và nhân giống nhân tạo, đã xuất hiện xu hướng số lượng gia tăng tốt. Với các chương trình giáo dục bảo tồn từ các tổ chức bảo vệ, cộng với việc tăng cường tài chính, sói đỏ có triển vọng tiếp tục sinh sản và sinh tồn trong tự nhiên, trở lại với vai trò là loài động vật phát triển mạnh tại bờ Đông Bắc Mỹ. Tính đến tháng 9 năm 2002, khoảng 175 con sói đỏ đã được nuôi giữ tại 33 cơ sở ở Hoa Kỳ và Canada. Mục tiêu của quần thể nuôi là bảo đảm tính toàn vẹn di truyền của loài này và chuẩn bị cho việc tái thả động vật vào tự nhiên.
Công ước Washington (CITES) không đưa loài cực kỳ nguy cấp này vào danh sách bảo vệ, lý do là quần thể được thả trở lại vào tự nhiên vẫn chưa được xác định là loài động vật hoang dã có thể sinh sản, sinh tồn và phát triển ổn định.
Được đưa vào danh sách đỏ của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) phiên bản 3.1: Danh sách đỏ các loài nguy cấp năm 2008 – Nguy cấp (CR).
Bảo vệ động vật hoang dã, cấm buôn bán động vật hoang dã.
Bảo vệ cân bằng sinh thái, là trách nhiệm của mọi người!
Phạm vi phân bố
Sói đỏ từng phân bổ khắp miền Đông Nam Hoa Kỳ, từ Pennsylvania dọc theo bờ Đại Tây Dương đến Florida và trung tâm Texas, từ ven Vịnh Mexico tới trung tâm Missouri và miền nam Illinois, cũng như xuất hiện ở miền Bắc Maine. Lãnh thổ tự nhiên của sói đỏ là từ 25 đến 50 dặm vuông. Bất kỳ vùng đất nào cung cấp đủ thức ăn, nước và thảm thực vật dày đặc đều có thể trở thành môi trường sống của sói đỏ. Các khu vực phân bố chủ yếu là Khu bảo tồn động vật hoang dã quốc gia Sông Cá Sấu ở Bắc Carolina và Vườn quốc gia Great Smoky Mountains. Tại Canada cũng có sự hiện diện chưa rõ ràng.
Thói quen và hình thái
Sói đỏ có chiều dài cơ thể từ 95-120 cm, chiều dài đuôi từ 25-35 cm, và cân nặng từ 20-35 kg. So với sói xám, sói đỏ có hình dáng thon gọn hơn; so với sói đồng cỏ, chúng có đầu dài hơn, chân khỏe hơn và tai lớn hơn. Bộ lông ngắn và thô, màu sắc chủ yếu là đỏ quế và nâu vàng, kết hợp với màu xám hoặc đen, lưng màu đen, mũi và chân màu nâu vàng, đầu đuôi đen, mắt rất sáng. Vào mùa đông, các yếu tố màu đỏ trong bộ lông chiếm ưu thế. Chúng thay lông hàng năm vào mùa hè. Tuổi thọ trung bình khoảng 4 năm, cũng có cá thể ghi nhận sống lên tới 14 năm.