Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Linh dương Somalia – Tên khác: Linh dương Sudan, Linh dương Somalia – Lớp: Miễn dịch – Bộ: Dê – Họ: Linh dương
Dữ liệu đặc điểm
Chiều dài cơ thể: 125-150 cm – Cân nặng: 28.5-38.6 kg – Tuổi thọ: Khoảng 14 năm
Đặc điểm nổi bật
Màu sắc thông thường là nâu nhạt, phần dưới cơ thể màu trắng, có đường biên rõ ràng.
Giới thiệu chi tiết
Linh dương Somalia (tên khoa học: Nanger soemmerringii) có tên tiếng Anh là Soemmerring’s Gazelle, có 3 phân loài.
Trước đây, linh dương Somalia có thể tập trung thành đàn hàng trăm con trong các cuộc di cư theo mùa, nhưng cảnh tượng ngoạn mục này đã trở nên rất hiếm hoi. Linh dương Somalia thường tụ tập thành đàn nhỏ dưới 15 con. Các đàn này chủ yếu bao gồm con cái và những chi con, với một con đực trưởng thành theo cùng. Con đực đánh dấu lãnh thổ bằng phân. Nếu có con đực khác xâm nhập vào lãnh thổ của nó, có thể xảy ra cuộc chiến dữ dội. Cuộc chiến này bao gồm đẩy nhau trên mặt đất, va chạm đầu và lắc người để tấn công đối thủ.
Linh dương Somalia chủ yếu ăn cỏ, với chiếc miệng hẹp và môi di động giúp chúng chọn ra cỏ chất lượng nhất. Kẻ thù chính của linh dương Somalia là các loài ăn thịt như báo, sư tử, báo leopards, chó săn và ngay cả trăn.
Linh dương Somalia giao phối từ tháng 9 đến tháng 11. Thời gian mang thai khoảng 198 ngày, mỗi lần sinh một con non, thường ẩn trong bụi cỏ trong khoảng một tháng cho đến khi con non đủ sức để đi theo mẹ. Trong thời gian này, con cái phải luôn ở bên con non để chăm sóc và bảo vệ. Thời gian cai sữa cho con non là 6 tháng. Linh dương Somalia đạt độ trưởng thành sinh sản chỉ sau 18 tháng, có thể sinh sản, tuổi thọ có thể lên đến 14 năm.
Linh dương Somalia có phạm vi phân bố hẹp và bộc lộ xu hướng giảm số lượng vừa phải. Nguyên nhân giảm số lượng là do mất môi trường sống, giảm lượng mưa, ảnh hưởng của du lịch và phát triển đường, làm cho môi trường sống bị thay đổi. Chúng đã được xếp vào nhóm loài dễ bị tổn thương.
Một quần thể linh dương Somalia duy nhất được bảo vệ hiệu quả là ở đảo Dahlak Kebir của bộ tộc Erythraea. Chúng được cộng đồng địa phương và công viên quốc gia Awash ở Ethiopia rất coi trọng. Bán đảo Buri ở Eritrea được chỉ định làm khu bảo tồn. Somalia không có khu bảo tồn hoạt động bình thường. Có một số ít linh dương Somalia được nuôi nhốt trong điều kiện quản lý tốt. Trừ khi có các khu vực lớn áp dụng các biện pháp bảo vệ và quản lý hiệu quả, số lượng và sự phân bố tổng thể của loài này sẽ tiếp tục giảm.
Được ghi vào Danh sách Đỏ các loài nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) 2016 phiên bản 3.1 – Loài dễ bị tổn thương (VU).
Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn việc sử dụng thịt động vật hoang dã.
Bảo vệ cân bằng sinh thái, là trách nhiệm của mọi người!
Phạm vi phân bố
Linh dương Somalia sinh sống ở Sừng châu Phi, nơi có nguồn gốc từ Djibouti, Eritrea, Ethiopia, Kenya, Somalia và Sudan. Chúng cư trú ở khu vực đồi và đồng cỏ bán khô cằn, thường có cây keo và bụi rậm xung quanh.
Tính cách và hình thái
Linh dương Somalia có chiều dài đầu cơ thể 125-150 cm, chiều cao vai 81-90 cm, chiều dài đuôi 18-23 cm; cân nặng 28.5-38.6 kg. Chúng có sừng ngắn và nặng hình đàn hạc, uốn cong ra phía sau và chĩa về phía đỉnh. Sừng của con đực dài 38-48 cm, nhưng có những mẫu vật ngoại lệ có thể vượt quá 58 cm. Sừng của con cái nhỏ hơn và có độ cong ngang ít hơn, thường ngắn hơn và không vượt quá 40 cm. Loài này có làn da cứng cáp. Màu sắc thông thường là nâu nhạt, phần dưới cơ thể sáng trắng; hai màu này có một đường phân chia rõ ràng dọc theo thân. Phần mông có màu trắng kéo dài đến phần gốc đuôi và nhô ra phía trước đến hông. Đuôi trắng, với một mảng lông đen ở đầu đuôi. Hai bên má có sọc nổi bật. Ở giữa khuôn mặt, từ gạc đến mõm có sọc màu tối chạy từ khóe mắt đến mũi, ngăn cách với sọc trắng chạy qua mắt xuống miệng. Cằm và phần trên của cổ họng có màu trắng. Bộ lông của con đực có màu tối hơn, với 14-22 vân ngang từ trán đến hai phần ba phía sau cơ thể. Có ba phân loài, chúng hơi khác nhau về ngoại hình. Phân loài Nanger có khuôn mặt màu nâu, sừng ngắn hơn; phân loài Belarus có khuôn mặt tối hơn, sừng dài hơn; phân loài chỉ định có màu sắc bên hông đậm hơn.