Quản hải mã

Thông tin cơ bản

Phân loại khoa học

Tên tiếng Việt: Cá ngựa Tên khác: Cá ngựa Kuda Lớp: Cá nhỏ Bộ: Cá tìa Họ: Cá chình Chi: Cá ngựa

Dữ liệu hình thể

Chiều dài: Khoảng 30 cm Cân nặng: Chưa có tài liệu xác minh Tuổi thọ: 3-5 năm

Đặc điểm nổi bật

Cá ngựa Kuda là một trong những loài có kích thước lớn nhất và giá trị dược liệu cao trong họ cá ngựa, cũng là một trong những giống nuôi trồng nhân tạo tốt.

Giới thiệu chi tiết

Cá ngựa Kuda (tên khoa học: Hippocampus kuda), tên tiếng Anh: Spotted Seahorse, thuộc họ Cá chình, chi Cá ngựa.

Cá ngựa Kuda

Cá ngựa Kuda thường sống ở các bãi biển, cảng và đầm phá, trong cát, các lớp thảm tảo lớn và cỏ biển, rừng ngập mặn, đáy bùn và các bãi san hô nông. Có khả năng thích nghi tốt, có thể chịu đựng sự thay đổi độ mặn, thường quấn đuôi quanh cỏ biển, san hô hoặc đá, khả năng bơi kém, màu sắc thay đổi theo môi trường. Chúng là loài ăn động vật, thức ăn chủ yếu là động vật không xương sống.

Thời gian sinh sản của cá ngựa Kuda là vào mùa xuân và mùa hè, cá cái sẽ đẻ trứng vào túi ấp của cá đực, chì cá đực sẽ chăm sóc. Quá trình sinh sản rất đặc biệt, trong khi giao phối, cá cái sẽ chuyển trứng vào túi ấp của cá đực. Thời điểm thụ tinh vẫn chưa rõ ràng, nhưng hợp tử sẽ ở lại trong túi ấp ít nhất 4-5 tuần sau khi thụ tinh, cho đến khi cá đực phun ra chúng.

Mặc dù số lượng chính xác của cá ngựa Kuda vẫn chưa rõ, nhưng các cuộc điều tra thương mại giữa năm 1995 và 2000 đã cho chúng ta lý do để nghi ngờ rằng số lượng cá ngựa Kuda hoang dã có vẻ giảm sút trong toàn bộ phạm vi của nó. Ví dụ, tại Thái Lan, trong năm 1998 và 1999, 81% ngư dân được khảo sát (30 trong số 37 người) và 71% ngư dân Malaysia (37 trong số 52 người) báo cáo rằng nói chung, số lượng cá ngựa, bao gồm cả cá ngựa Kuda, đang giảm. Việc đánh bắt quá mức, sự gia tăng số lượng ngư dân và tàu đánh cá lưới kéo là những nguyên nhân được cho là dẫn đến sự suy giảm số lượng (2010). Tại Hồng Kông, có báo cáo rằng cá ngựa Kuda trước đây rất phổ biến, nhưng sau năm 2000 rất hiếm được phát hiện (2010). Những ví dụ này cho thấy rằng sự suy giảm số lượng đã kéo dài hơn 10 năm (2010).

Cá ngựa Kuda

Nghiên cứu di truyền sơ bộ ở Thái Lan cho thấy có hai quần thể khác nhau trong vùng nước Thái Lan: một ở vịnh Thái Lan và một ở bờ biển Andaman. Quần thể ở vịnh Thái Lan có chung huyết thống với các quần thể khác của Thái Bình Dương, trong khi quần thể từ bờ biển Andaman có chung huyết thống với các quần thể ở Ấn Độ Dương và Indonesia.

Tại Vịnh Ba Tư, cá ngựa Kuda rất phổ biến quanh các rạn san hô; ở Papua New Guinea và Indonesia, cá ngựa Kuda là loài cá ngựa phổ biến nhất; ở Ấn Độ Dương gần phía nam châu Phi, số lượng cá ngựa Kuda vẫn chưa rõ.

Quần thể cá ngựa Kuda ở Australia đã được di chuyển theo quy định của Luật Bảo vệ Động vật Hoang dã Australia vào năm 1998, yêu cầu giấy phép xuất khẩu khi giao dịch. Những giấy phép này chỉ được cấp cho các chương trình quản lý được phê duyệt hoặc động vật nuôi nhốt. Năm 2001, quản lý này cũng được tiếp tục theo Quyết định Bảo vệ Môi trường và Đa dạng Sinh học mới. Nhiều quốc gia cũng đã có văn bản kiểm soát việc bắt giữ và giao dịch cá ngựa Kuda.

Tất cả các loài cá ngựa đều được liệt kê trong Phụ lục I của Luật Bảo vệ Động vật Hoang dã Ấn Độ năm 1972, nghiêm cấm việc bắt giữ và giao dịch. Năm 2011, Campuchia và Trung Quốc đã cấm xuất khẩu cá ngựa Kuda hoang dã. Tại Singapore, cá ngựa Kuda bị coi là bị đe dọa do mất môi trường sống và thu hoạch dược liệu, trừ khi có giấy phép, việc giao dịch và thu hoạch cho thủy cung là không được phép.

Cá ngựa Kuda là loài có kích thước lớn nhất và có giá trị dược liệu cao trong họ cá ngựa, cũng là một trong những giống nuôi trồng tốt. Ảnh hưởng của vị thế vi khoá học của cá ngựa Kuda cho thấy lượng vi lượng và axit amin có trong cá ngựa Kuda rất phong phú, thành phần chiếm trên 4,0% chứa arginine, aspartic acid, alanine, glycine, proline và glutamic acid, cùng với taurine có giá trị dược liệu cao. Nghiên cứu y học hiện đại cho thấy các nguyên tố vô sinh như đồng, mangan, kẽm có vai trò sinh lý quan trọng trong việc tăng cường chức năng miễn dịch của cơ thể, chống lão hóa và bổ thận, tráng dương; cá ngựa Kuda chứa nhiều đồng, mangan, kẽm và arginine, điều này có thể là cơ sở vật chất quan trọng trong việc bổ thận, tráng dương.

Được liệt kê trong Danh sách Đỏ các loài Nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN 2015 ver 3.1) – Loài dễ bị tổn thương (VU).

Được liệt kê trong Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật và thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) – Phụ lục II.

Được liệt kê trong Danh sách Đỏ các loài của Trung Quốc – loài nguy cấp.

Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn sự tiêu thụ động vật hoang dã.

Bảo vệ cân bằng sinh thái, là trách nhiệm của tất cả mọi người!

Phạm vi phân bố

Cá ngựa Kuda phân bố từ Vịnh Ba Tư tới Đông Nam Á, Australia, Nhật Bản và một số hòn đảo Thái Bình Dương, bao gồm cả Hawaii. Nó cũng có mặt từ bờ biển phía Đông Châu Phi từ Tanzania đến Nam Phi. Các khu vực quốc gia: Samoa thuộc Mỹ, Australia, Bahrain, Campuchia, Fiji, Polynesia thuộc Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Kuwait, Malaysia, Micronesia, Mozambique, New Caledonia, Tanzania, Thái Lan, Tonga, Mỹ (Quần đảo Hawaii), Việt Nam.

Tập tính và hình thái

Có 17 vây lưng; 4 vây bụng; 16 vây ngực. 11+35-36 vòng trong cơ thể. Kích thước lớn. Thân hình dẹt bên, cao hơn, phần đầu có những gai nhỏ phát triển, các gai ngắn và cứng trên thân, bụng lồi. Đỉnh đầu thấp, có 5 gai ngắn và thô, phần thân có 7 góc, phần đuôi có 4 góc, cuốn lại. Chiều dài thân gấp 5,5-5,8 lần chiều cao. Chiều dài đầu gấp 2,2-2,3 lần chiều dài mõm, gấp 8,5-9,4 lần đường kính mắt. Mõm dài, hình ống, chiều dài mõm bằng chiều dài đầu sau mắt, mắt nhỏ và nằm cao bên. Khoảng cách giữa các mắt hơi lõm, nhỏ hơn đường kính mắt, có 2 lỗ mũi mỗi bên. Miệng nhỏ, nằm ở phía trước, không có răng. Nắp mang phồng lên, có các đường gân tỏa ra. Lỗ mang nhỏ, nằm ở trên bên đầu. Các gai bên đầu và dưới lông mày, dưới gò má đều khá thô. Cơ thể không có vảy, được bao phủ hoàn toàn bởi các vòng xương. Vây lưng phát triển hơn với 17 tia vây. Vây bụng ngắn. Vây ngực ngắn và rộng, có 16 tia, nằm bên. Không có vây bụng và vây đuôi. Các vây không có gai, các tia vây không phân nhánh. Màu sắc cơ thể đa dạng, bao gồm hồng nhạt, vàng, xanh lục, nâu xám hoặc nâu đậm, trên đầu và thân bên có các đốm tối nhỏ và các đốm trắng nhỏ, vây lưng có các vạch sọc đen, vây bụng và vây ngực có màu nhạt.

Câu hỏi thường gặp