Ngỗng đen Canada

Thông tin cơ bản

Phân loại khoa học

Tên tiếng Việt: Ngỗng Canada

Tên khác: Ngỗng Canada, ngỗng mảng đen, Branta canadensis

Hệ động vật: Chim nước

Danh mục: Họ ngỗng, Ngành ngỗng

Dữ liệu thể chất

Chiều dài: Khoảng 100 cm

Cân nặng: 3-10,9 kg

Tuổi thọ: Khoảng 24 năm

Đặc điểm nổi bật

Là loài lớn nhất trong họ ngỗng trên thế giới

Giới thiệu chi tiết

Ngỗng Canada (tên khoa học: Branta canadensis), tên tiếng Anh: Canada Goose. Theo quy định của “Hiệp hội Các nhà Hàng không Hoa Kỳ” (American Ornithologists Union) vào năm 2004, ngỗng Canada được phân thành ngỗng Canada (B. canadensis) và ngỗng nhỏ Bắc Mỹ (B. hutchinsii), mỗi loài bao gồm 7 và 5 phân loài.

Canada Goose

Ngỗng Canada thích sống thành bầy đàn, thường hoạt động và trú ngụ cùng nhau. Khi bay, cánh của chúng đập nhanh và mạnh, phát ra âm thanh “vù vù”. Chúng thường bay theo đường thẳng nhưng cũng thường bay vòng trên mặt biển; chuyển hướng rất linh hoạt. Chúng rất giỏi bơi lội và lặn, tốc độ bay cũng nhanh, khi cất cánh từ mặt nước, chúng thường xuyên kêu gọi. Vào ban đêm, chúng thường trú ngụ trên mặt nước, bờ nước nông hoặc bãi cát. Mỗi sáng, chúng bay theo nhóm đến đồng cỏ để kiếm ăn, và vào buổi trưa lại quay về bờ nước để nghỉ ngơi, uống nước và ăn cát, đôi khi cũng trú ngụ ở nơi kiếm ăn vào buổi tối. Khi thời tiết có điều kiện khắc nghiệt, đặc biệt là trong thời tiết bão, chúng thường trốn vào trong bụi cây.

Ngỗng Canada chủ yếu ăn thực vật. Khi mới di cư đến nơi sinh sản, vì băng tuyết chưa tan, chúng chủ yếu ăn moss và lichen dưới đá. Khi nhiệt độ tăng dần, thực vật bắt đầu mọc, chúng bắt đầu ăn rất nhiều chồi non, thân cây và lá của thực vật. Vào mùa thu và mùa đông, chúng kiếm ăn ở bờ biển, chủ yếu là tảo lớn và rong biển, ngoài ra cũng đôi khi ăn một ít côn trùng thủy sinh, động vật thân mềm, động vật giáp xác nhỏ và các động vật không xương sống thủy sinh khác cùng với trứng cá. Thời gian kiếm ăn chủ yếu là vào buổi sáng và chiều. Mùa sinh sản, chúng chủ yếu kiếm ăn trên đất tundra, còn ngoài mùa sinh sản, chúng kiếm ăn ở vùng bùn ven biển và ven sông.

Canada Goose

Thời kỳ sinh sản của ngỗng Canada kéo dài từ giữa tháng 3 đến cuối tháng 8. Tổ làm từ cỏ khô, lót bằng vài lông tơ. Mỗi tổ đẻ từ 4-7 quả trứng, trứng có màu trắng và vàng nhạt, do con ngỗng cái đảm nhận việc ấp trứng một mình, trong khi con ngỗng đực cảnh giữ ở gần tổ trong thời gian con cái đẻ trứng và ấp. Khi con cái rời tổ để kiếm ăn, chúng sẽ đậy tổ lại bằng lông tơ và cỏ. Nếu có kẻ xâm nhập, ngỗng mẹ sẽ kêu lớn, giọng có vẻ lo lắng, đồng thời giả vờ tấn công kẻ thù, không bao giờ bỏ tổ để chạy trốn. Thời gian ấp trứng kéo dài từ 25-30 ngày. Sau khi nở, ngỗng con đã có lông, thuộc loại chim non đã phát triển. Khi ngỗng con nở, ngỗng đực cũng tham gia vào việc chăm sóc và bảo vệ ngỗng con, cùng ngỗng cái dẫn ngỗng con đến nơi có thực vật dày để kiếm ăn, ngỗng mẹ chăm sóc ngỗng non trong 40-73 ngày. Cuối tháng 7 đến đầu tháng 8, ngỗng trưởng thành bắt đầu lột lông, mất khoảng 15-20 ngày. Ngỗng non phải mất từ 2-3 năm mới đạt đến độ trưởng thành sinh sản.

Ngỗng Canada có sự phân bố rộng rãi, số lượng loài toàn cầu ước tính từ 5,000,000-6,200,000 con (Wetlands International 2015). Số lượng ở Châu Âu ước tính từ 1,000-5,000 cặp, tương đương với 2,000-10,000 cá thể trưởng thành (BirdLife International 2015).

Canada Goose

Sự kiện máy bay American Airlines 1549. Vào ngày 15 tháng 1 năm 2009, máy bay American Airlines 1549 trong quá trình cất cánh đã bị một đàn ngỗng Canada tấn công làm mất động lực, phi công sau khi xác nhận không thể đến được sân bay gần đó đã quyết định hạ cánh khẩn cấp trên sông Hudson. Chuyến bay đã hạ cánh khẩn cấp trên sông Hudson ở Manhattan sau 6 phút cất cánh, kết quả all 151 người trên máy bay đều sống sót, sự kiện này được gọi là “Phép màu sông Hudson”.

Được xếp vào danh sách Đỏ về các loài bị nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) năm 2018 phiên bản 3.1 – Không nguy cấp (LC).

Bảo vệ động vật hoang dã, không ăn thịt thú rừng.

Bảo vệ sự cân bằng sinh thái là trách nhiệm của mọi người!

Phạm vi phân bố

Loài này có phạm vi phân bố rộng lớn, sinh sản ở Canada, Alaska, phần lớn các khu vực Hoa Kỳ và một phần ở Bắc Mỹ, cũng như mùa đông ở miền Nam Bắc Mỹ, bao gồm cả Mexico. Các quần thể bên ngoài sống ở hầu hết các khu vực phía nam của phạm vi sinh sản bình thường ở Hoa Kỳ, cũng như nhiều nước Tây Âu. Các phân loài châu Á sống ở khu vực biển Bering đã tuyệt chủng từ khoảng năm 1914. Chúng thường sống ở các vịnh, cảng biển và cửa sông, hoặc trên những đồi cỏ thấp gần biển.

Chúng chủ yếu sống trong các khu vực thấp của tundra gần bờ biển Bắc Cực, thường gần bãi triều của nước biển, đặc biệt phổ biến trên các đồng tundra bị chia cắt bởi nhiều khe nước triều, thường cách bờ triều cao vài km. Đôi khi, chúng cũng từ khu vực triều biển mở rộng vào các hồ tundra và đảo cỏ ở đất liền. Môi trường sinh sản chính của chúng là các khu vực lãnh nguyên hoặc các khu vực cây bụi phủ rêu và địa y, đặc biệt là ở những nơi có địa hình cao và khô hơn, hoặc là vùng tundra gần nước có sự phát triển thưa thớt của cây bụi. Vào mùa đông, chúng thường xuất hiện quanh các hồ và đập có thực vật chịu kiềm, cũng như các vùng nước mặn và ven biển, đôi khi cũng xuất hiện trên các cánh đồng. Sau khi ngỗng con ra đời vào cuối mùa sinh sản, chúng di cư đến các hồ và vùng đất ngập nước khác. Mùa đông, chúng thường ở lại những vùng có thực vật dày đặc ven biển. Chúng thường đến vùng cỏ ven biển vào buổi sáng để tìm kiếm thực phẩm, sau đó bay trở lại biển để nghỉ ngơi và uống nước. Vào buổi chiều, chúng tiếp tục tìm kiếm thực phẩm dọc theo bờ biển cho đến khi mặt trời lặn. Đêm đến, chúng trú ngụ trên mặt biển rộng lớn.

Hành vi và hình dáng

Ngỗng Canada là loài lớn nhất trong họ ngỗng trên thế giới. Loài này có sự khác biệt giới tính nhỏ, trong đó con đực hơi lớn hơn con cái, nhưng cả hai có trọng lượng từ 3-10,9 kg. Chiều cao từ 76-110 cm, sải cánh từ 1,3-1,7 m. Mặc dù sự khác biệt giữa hai giới là nhỏ, chúng trông tương tự nhau. Đầu và cổ dài, lưng có lông màu nâu xám với các tông màu khác nhau, bụng và đuôi thường có màu trắng hoặc màu sữa. Đầu và cổ có màu đen, họng kéo dài đến giữa cổ với các đốm trắng rõ ràng. Đuôi ngắn và đen, lông đuôi phía trên có màu trắng. Lông bụng và lông đuôi dưới có màu trắng. Có 7 phân loài, phân biệt ở đầu, kích thước và vị trí của các đốm trắng, cũng như độ xỉn màu của lông. Trong 7 phân loài, ngỗng Canada chỉ rõ lớn nhất với trọng lượng khoảng 6,4 kg. Chúng có mỏ và chân màu đen. Mỏ có rìa mỏng như răng cưa, giúp chúng ăn uống hiệu quả. Ngỗng con có màu vàng, lưng có lông màu xám xanh, thỉnh thoảng cũng có trên đầu, tùy thuộc vào phân loài.

Câu hỏi thường gặp