Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: DỊP ĐỎ
Các tên gọi khác: Díp đỏ Úc, Todirhamphus australasia, Halcyon australasia, australasia, Kingfisher Timor
Họ: Chim bói cá
Loại: Bộ bóng nước, Họ chim bói cá, Chi Todirhamphus
Dữ liệu đặc tính
Chiều dài cơ thể: Khoảng 21 cm
Cân nặng: 28-58 g
Tuổi thọ: Chưa có tài liệu xác thực
Các đặc điểm nổi bật
Giới thiệu chi tiết
Tên khoa học của Díp đỏ là Todirhamphus australasia, tên tiếng Anh là Halcyon australasia, australasia, Kingfisher Timor, có 5 phân loài:
1. Phân loài chỉ định Todirhamphus australasia australasia phân bố ở quần đảo Lesser Sundas (Đảo Lombok, Sumbawanga và Đông Timor). 2. Phân loài Damar Todirhamphus australasia dammerianus phân bố ở phía đông quần đảo Lesser Sundas (Damar và Babar). 3. Phân loài đất liền Todirhamphus australasia interpositus phân bố ở phía đông quần đảo Lesser Sundas (Leti và Moa). 4. Phân loài Tanimbar Todirhamphus australasia odites phân bố ở quần đảo Tanimbar. 5. Phân loài Ronga Todirhamphus australasia tringorum phân bố ở đảo Ronga phía đông quần đảo Lesser Sundas.
Díp đỏ thường hoạt động đơn độc, thường nghỉ ngơi trên các cọc cây bên bờ sông và các tảng đá, đôi khi cũng đậu trên cành thấp của cây nhỏ gần bờ. Nó thường đứng im lâu nhìn xuống mặt nước, ngay khi thấy cá hoặc tôm, nó sẽ lao xuống nước với tốc độ rất nhanh và hung dữ để bắt mồi. Đôi khi, nó sẽ đập cánh lơ lửng trên không, cúi đầu nhìn xuống mặt nước, thấy thức ăn thì ngay lập tức lao xuống nước và nhanh chóng bắt lấy. Nó thường mang con mồi về chỗ nghỉ ngơi, đập nó lên cành cây hoặc đá cho đến khi chết rồi nuốt nguyên con.
Mồi chính của Díp đỏ là động vật không xương sống như châu chấu, nhện, bọ cạp và ốc sên. Nó cũng ăn các động vật có xương sống nhỏ như cá nhỏ, rắn và thằn lằn.
Díp đỏ có thể phát ra âm thanh nhanh chóng: “’ ch’w’hee – ch’w’hee” kéo dài từ 5 đến 12 giây. Nó cũng thường tạo ra tiếng ồn.
Díp đỏ sinh sản một lứa mỗi năm, làm tổ trên các vách đất hoặc bờ sông, đào hốc với miệng để làm tổ, thường đẻ trứng vào tháng 5 và tháng 6. Một số cũng khoét lỗ trên thân cây để làm tổ. Trứng gần hình tròn, màu trắng tinh khiết, nhẵn bóng, kích thước khoảng 29,4 x 26,2 mm. Chim bố mẹ thay phiên nhau ấp trứng, thời gian ấp từ 19-21 ngày. Chim non nở muộn, sau khi nở sẽ được chim mẹ chăm sóc từ 23-30 ngày rồi mới có thể bay ra khỏi tổ.
Díp đỏ có phạm vi phân bố rất rộng nhưng rải rác, và thường không phổ biến. Do sự biến đổi của rừng nơi chúng sinh sống, do sự phát triển của con người và mất môi trường sống, hiện nay số lượng của loài này đang giảm. Nghiên cứu sinh thái cho biết loài này đã nằm trong tình trạng gần nguy cấp.
Được liệt kê trong Danh sách Đỏ các loài nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) phiên bản 3.1 năm 2013 – gần nguy cấp (NT).
Bảo vệ động vật hoang dã, nói không với thịt thú rừng.
Bảo vệ sự cân bằng sinh thái là trách nhiệm của mọi người!
Phạm vi phân bố
Phân bố ở Indonesia và Đông Timor. Díp đỏ sống ở môi trường rừng, từ mực nước biển lên đến độ cao 700 mét. Nó sống ở rìa rừng, rừng mưa, nơi có nhiều cây cối, rừng nhân tạo, vườn cây, trong các bóng râm gần làng hoặc nông trại. Nó có vẻ rất thích những nơi có cây cối rậm rạp làm nơi trú ngụ.
Tình hình và hình thái
Díp đỏ dài khoảng 21 cm, chim trống nặng từ 28-58 gram, chim mái nặng từ 39-55 gram. Chim trống và mái có hình dạng giống nhau. Chim trưởng thành có chóp đầu màu cam đỏ đến chân mày. Vùng quanh mắt có màu vàng nhạt hoặc cam. Mặt của loài này có một màng che màu đen kéo dài đến cổ. Cằm màu trắng. Họng, hai bên cổ và các phần khác có màu cam nhạt. Phần trên cổ có màu quế cam; lưng và xương vai có màu xanh lá cây; ngực màu trắng, bụng màu nâu vàng; vùng hông có màu xanh ngọc; đuôi có màu xanh sáng; cánh có màu xanh lá; đuôi là màu xanh nước biển; dưới cánh có một mảng nhỏ màu xanh đen, phía dưới là cánh màu đỏ. Xương hàm trên có màu nâu đen, xương hàm dưới màu vàng nhạt và có viền lông đen. Mống mắt có màu nâu, xung quanh có một vòng lông nhỏ. Chân có màu đen. Chim non có ngoại hình tương tự như chim mái trưởng thành, nhưng lông ngực có viền màu đen. Mỏ có màu sáng. Mỏ thô và dài như cái đục, đáy rộng hơn, mỏ nhọn thẳng, không có má lỗ mũi ở hai bên; cánh tròn, lông cánh chính thứ nhất và thứ bảy có độ dài bằng nhau hoặc ngắn hơn một chút, lông cánh chính thứ hai, ba, bốn gần như bằng nhau; lông cánh chính có các vết trắng ở gốc; đuôi hình tròn.