Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Chim bói cá mỏ bẹt
Tên khoa học: Todirhamphus recurvirostris
Hạng: Chim
Họ: Cẩm quỳ
Chi: Cẩm quỳ mỏ bẹt
Dữ liệu về đặc điểm
Chiều dài: Chưa có tài liệu khảo sát
Cân nặng: Chưa có tài liệu khảo sát
Tuổi thọ: Chưa có tài liệu khảo sát
Đặc điểm nổi bật
Giới thiệu chi tiết
Chim bói cá mỏ bẹt có tên khoa học là Todirhamphus recurvirostris, tên tiếng Anh là Flat-billed Kingfisher. Loài này có 5 phân loài:
1. Todirhamphus recurvirostris sanctus phân bố ở Úc, phía đông Solomon (đảo Guadalcanal, đảo San Cristóbal), Indonesia và Melanesia.
2. Todirhamphus recurvirostris vagans phân bố ở quần đảo Norfolk, quần đảo Kermadec và New Zealand.
3. Todirhamphus recurvirostris canacorum phân bố ở Nouvelle-Calédonie và Ascension.
4. Todirhamphus recurvirostris macmillani phân bố ở đảo Loyalty.
5. Todirhamphus recurvirostris recurvirostris phân bố ở Samoa Tây.
Chim bói cá mỏ bẹt thường săn mồi một mình hoặc theo cặp. Giống như hầu hết các loài chim bói cá sống trong rừng, chúng hoàn toàn ăn thịt. Chúng thường tìm kiếm con mồi trên lá cây hoặc trong đất. Thức ăn chính của chúng là động vật không xương sống như châu chấu, nhện, bọ cạp và ốc sên. Chúng cũng ăn các động vật có xương sống nhỏ như cá nhỏ, rắn nhỏ và thằn lằn.
Chim bói cá mỏ bẹt làm tổ tại các vách đất hoặc bờ kè ven sông, chúng đào các hang đường hầm để làm tổ, sâu 60 cm, rộng 20 cm, cao 10 cm, hình oval. Những hang này thường không có vật liệu lót. Trứng được đặt trực tiếp lên đáy hang. Một số cũng khoét hang trên thân cây để làm tổ. Trứng có hình gần tròn, màu trắng thuần, kích thước khoảng 29.4 x 26.2 mm.
Chúng nằm trong danh sách đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) phiên bản 3.1: năm 2008.
Bảo vệ động vật hoang dã, không tiêu thụ thịt hoang dã.
Bảo vệ cân bằng sinh thái là trách nhiệm của mọi người!
Phạm vi phân bố
Loài này phân bố tại các đảo Thái Bình Dương (bao gồm cả tỉnh Đài Loan của Trung Quốc, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa và các nước như Philippines, Brunei, Malaysia, Singapore, Indonesia, Sumatra, đảo Java và Papua New Guinea). Chúng thường sống ở những nơi rừng rậm và gần nước.
Tập tính hình thái
Phần trên thường có màu xanh dương hoặc màu ngọc lam, màu cánh tương tự như màu lưng nhưng tối hơn một chút. Bộ ngực và bụng có màu trắng hoặc cam, có một đường viền trắng quanh cổ, lông mày trắng, mắt vàng, và mắt đen. Chân có màu xám đen. Mỏ của chim bói cá mỏ bẹt khá dài và to, gốc rộng hơn, mỏ hơi cong lên, đỉnh tròn, không có rãnh mũi ở hai bên; cánh tròn, lông vũ đầu tiên và lông vũ thứ bảy của cánh chính dài bằng nhau hoặc ngắn hơn một chút, lông vũ thứ hai, thứ ba và thứ tư gần bằng nhau; lông vũ cánh chính có chỗ trắng ở gốc; đuôi có hình tròn.