Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Chim bói cá Molucca Tên khác: Bói cá Molucca, Todirhamphus diops, Chim bói cá Molucca Nhóm: Chim ăn thịt Họ: Cóc họe Chi: Todirhamphus
Dữ liệu đặc điểm
Chiều dài: 19-20 cm Cân nặng: 41-65g Tuổi thọ: Chưa có dữ liệu xác minh
Đặc điểm nổi bật
Giới thiệu chi tiết
Chim bói cá Molucca có tên khoa học Todirhamphus diops, là một loài thuộc họ Chim bói cá.
Chim bói cá Molucca, giống như hầu hết các loài chim bói cá sống trong rừng, hoàn toàn ăn thịt. Chúng thường tìm kiếm con mồi trên lá cây hoặc trong bùn. Thức ăn chủ yếu là động vật không xương sống như dế, nhện, bọ cạp và ốc sên. Chúng cũng ăn các động vật có xương sống nhỏ như cá nhỏ, rắn nhỏ và thằn lằn.
Chim bói cá Molucca làm tổ trên các vách đất hoặc bờ sông, chúng dùng mỏ để khoét các hang sâu 60 cm, rộng 20 cm, dài 10 cm, hình oval. Những hang này thường không được trải đệm. Trứng được đặt trực tiếp trên nền tổ. Một số cũng khoét tổ trên thân cây. Trứng có hình gần tròn, màu trắng tinh, kích thước khoảng 29.4×26.2 mm.
Được liệt kê trong danh mục đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) phiên bản 3.1: Danh sách các loài chim năm 2008.
Bảo vệ động vật hoang dã, không tiêu thụ thịt hoang dã.
Bảo vệ sự cân bằng sinh thái, là trách nhiệm của mọi người!
Phạm vi phân bố
Phân bố ở khu vực Wallace (khu vực nằm ở phía đông của đường Wallace truyền thống, từ vùng biển phía đông Pulau Simalungun qua eo biển Makassar đến giữa Bali và Lombok, phía tây Papua New Guinea, bao gồm các đảo Sulawesi, Đông Nusa Tenggara, Quần đảo Tây Nam, Quần đảo Molucca (Quần đảo Maluku), Đông Timor). Môi trường sống tự nhiên của chim bói cá Molucca hiện nay đã trở thành một khu vực đông dân cư ở Bắc Maluku. Chúng thường sống trong các khu rừng rậm và gần bờ sông, thường hoạt động ở rìa rừng, rừng cây, vườn, cánh đồng.
Tập tính hình thái
Chim bói cá Molucca dài 19 – 20 cm, con cái nặng 41-45g, con đực nặng 42-65g. Phần trước và đỉnh đầu của con đực màu đen, các phần còn lại màu xanh tím. Trên trán có một dấu hiệu hình tròn hoặc hình tam giác, cao hơn một chút so với mỏ. Cổ màu đen, trên đó thường có một số lông trắng. Có cổ trắng rất rộng. Lưng, cánh và phần trên cơ thể màu xanh tím, vai và lưng có màu do rõ ràng hơn. Đuôi có màu xanh sáng khác. Phần dưới cơ thể màu trắng tinh. Cánh có màu trắng, đuôi màu xám đen. Mỏ màu đen, đồng tử màu nâu đậm, chân màu xám đen. Con cái trưởng thành khác với con đực, hai bên cổ có màu xanh đen. Ngực có sọc xanh tím giao nhau. Mỏ dài, rộng ở gốc, đầu mỏ thẳng, đỉnh mỏ tròn, hai bên không có rãnh mũi; cánh tròn, lông cánh sơ cấp đầu tiên và thứ bảy bằng nhau hoặc ngắn hơn một chút, lông cánh sơ cấp thứ hai, thứ ba và thứ tư gần như bằng nhau; lông sơ cấp có đốm trắng ở gốc; đuôi có hình tròn.