Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Mèo đuôi ngắn
Tên khác: Mèo Bobcat, Mèo rừng Bắc Mỹ, Mèo đỏ
Ngành: Ngành Động vật có vú
Họ: Họ Mèo
Dữ liệu về đặc điểm
Chiều dài cơ thể: 65-120 cm
Cân nặng: 5.8-13.3 kg
Tuổi thọ: 6-16 năm, trong môi trường nuôi nhốt có thể lên đến 32 năm
Đặc điểm nổi bật
Bộ lông có màu từ xám đến nâu, trông giống như các loài mèo rừng khác có kích thước vừa.
Giới thiệu chi tiết
Mèo đuôi ngắn (tên khoa học: Lynx rufus) là một loài động vật thuộc họ mèo, phân bố ở Bắc Mỹ với 12 phân loài khác nhau.
Mèo đuôi ngắn có khả năng thích nghi với môi trường rất tốt, chủ yếu hoạt động vào thời điểm bình minh và hoàng hôn. Chúng bắt đầu hoạt động ba giờ trước khi mặt trời lặn cho đến khoảng nửa đêm, sau đó lại hoạt động một lần nữa từ trước khi mặt trời mọc đến ba giờ sau khi mặt trời mọc. Mỗi đêm, chúng di chuyển từ 3-11 km trên con đường sinh sống của mình. Hành vi này thay đổi theo mùa, vì vào mùa đông chúng sẽ điều chỉnh để phù hợp với con mồi, thường hoạt động vào ban ngày. Về tính cách, mèo đuôi ngắn thông thường rất hung dữ, có thể tồn tại ở những nơi có đông người, gia súc và gia cầm trở thành mục tiêu săn mồi của chúng, đáng sợ hơn, một số con mèo đuôi ngắn sẽ chủ động tấn công con người. Kỹ năng săn mồi và chiến thuật của mèo đuôi ngắn đều rất cao, chúng là những thợ săn bẩm sinh. Những phương pháp săn mồi thường được sử dụng bao gồm phục kích và theo dõi. Khi sử dụng hai phương pháp này, chúng sẽ linh hoạt thay đổi tùy thuộc vào kích thước con mồi.
Mèo đuôi ngắn có ý thức lãnh thổ rất mạnh. Thông thường, chúng chỉ hoạt động trong vùng lãnh thổ của riêng mình, bất kể có bao nhiêu hang ổ, tất cả đều phải được xây dựng trong lãnh thổ của mình, và việc săn mồi cũng diễn ra trong vùng lãnh thổ của mình. Kích thước lãnh thổ phụ thuộc vào giới tính và sự phân bố của con mồi. Chúng sẽ sử dụng phân, nước tiểu và vết cào trên cây để đánh dấu lãnh thổ của mình. Trong lãnh thổ của mèo đuôi ngắn có nhiều nơi sinh sống, thường có một hang chính và một số nơi trú ẩn phụ khác như gỗ rỗng, bụi rậm, cỏ hoặc giữa các khe đá. Hang của chúng có mùi rất mạnh của mèo đuôi ngắn.
Mèo đuôi ngắn thuộc về loài ăn tạp, ăn bất kỳ động vật nào mà chúng có thể bắt được, thỏ trắng là con mồi chính của mèo đuôi ngắn. Chúng có thể không ăn trong thời gian dài nhưng sẽ thường xuyên ăn khi có con mồi phong phú. Khi thiếu thức ăn, chúng sẽ săn bắn những động vật lớn hơn để đáp ứng nhu cầu sau này. Mèo đuôi ngắn sẽ theo dõi và phục kích con mồi. Chúng thích săn những động vật có trọng lượng từ 0,7-5,7 kg, và ở các khu vực khác nhau sẽ săn những con mồi khác nhau. Ở miền Đông Hoa Kỳ, chúng chủ yếu săn thỏ rừng, trong khi ở miền Bắc, chủ yếu là thỏ trắng. Tại miền Đông Hoa Kỳ, cả hai loại con mồi này cùng tồn tại và mèo đuôi ngắn sẽ săn cả hai loại này đồng thời. Mèo đuôi ngắn săn những động vật có kích thước khác nhau và thay đổi phương pháp săn tương ứng. Đối với những động vật nhỏ, như gặm nhấm, sóc, chim, cá và côn trùng, mèo đuôi ngắn sẽ tìm đến những nơi có nhiều con mồi, nằm chờ và phục kích. Đối với những động vật lớn hơn như thỏ và thỏ hoang, chúng theo đuổi con mồi cho đến khi con mồi nằm trong tầm từ 6-20 mét và bắt đầu tấn công. Mèo đuôi ngắn đôi khi cũng săn những động vật lớn hơn như cáo, chồn, chồn, chó nhỏ và mèo nhà, đôi khi cũng sẽ săn gia súc và gia cầm, cừu con và dê cũng có thể bị tấn công.
Ở miền Nam Bắc Mỹ, chuột bông sẽ thay thế thỏ và thỏ hoang trở thành thực phẩm chính của mèo đuôi ngắn. Mèo đuôi ngắn ở miền Nam Bắc Mỹ là những kẻ cơ hội, chúng thường thay đổi con mồi. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng chế độ ăn uống của chúng đa dạng do sự giảm số lượng con mồi chính, chế độ ăn tổng thể của chúng có thể được xác định bởi số lượng con mồi chính.
Thời gian mang thai của mèo đuôi ngắn là từ 60-70 ngày, con cái thường sinh từ tháng 4 đến tháng 5, mỗi lứa từ 1-6 con, thường là 2-4 con. Đôi khi lứa thứ hai có thể sinh muộn nhất vào tháng 9. Mèo cái thường sinh ở nơi kín đáo như hang nhỏ hoặc lỗ cây. Những con mèo con sẽ mở mắt vào ngày thứ 9-10 và bắt đầu khám phá môi trường xung quanh sau khoảng 4 tuần, chúng sẽ cai sữa sau 2 tháng. Sau 3-5 tháng, chúng sẽ bắt đầu đi ra ngoài cùng mẹ. Chúng sẽ bắt đầu tự săn mồi vào mùa đông của năm đầu tiên, khi chúng được 8 tháng tuổi, và sẽ nhanh chóng sống độc lập. Mèo đuôi ngắn có tuổi thọ trung bình từ 6-8 năm, một số ít có thể kéo dài trên 10 năm. Mèo đuôi ngắn sống lâu nhất trong tự nhiên có thể đạt 16 tuổi, trong khi mèo được nuôi nhốt có thể sống đến 32 tuổi.
Mèo đuôi ngắn được liệt kê trong Phụ lục II của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật hoang dã nguy cấp, tức là chúng không có nguy cơ tuyệt chủng nhưng việc săn bắn và buôn bán cần được kiểm soát. Mèo đuôi ngắn có các quy định ở ba quốc gia nơi chúng phân bố. Theo ước tính năm 1988, số lượng mèo đuôi ngắn ở Mỹ dao động từ 700,000 đến 1,500,000 con, với xu hướng tăng mỗi năm. Do đó, Mỹ đã yêu cầu loại bỏ mèo đuôi ngắn ra khỏi công ước. Số lượng mèo đuôi ngắn ở Canada và Mexico cũng rất ổn định. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới đã xếp mèo đuôi ngắn vào danh sách không có nguy cơ, cho thấy sự phân bố rộng rãi của chúng, nhưng chưa có số liệu rõ ràng ở miền Nam Mexico. Mèo đuôi ngắn đang gặp nguy hiểm ở một số khu vực như Ohio, Indiana và Iowa. Năm 1999, chúng đã được gỡ bỏ khỏi danh sách nguy hiểm ở Illinois, và cũng đã dỡ bỏ các hạn chế về săn bắn ở Pennsylvania. Vào thế kỷ 19, số lượng mèo đuôi ngắn ở New Jersey cũng giảm, chủ yếu do sự phát triển của thương mại và nông nghiệp làm giảm môi trường sống của chúng, vì vậy vào năm 1991, chúng được liệt kê là nguy hiểm ở tiểu bang này. Phân loài mèo đuôi ngắn ở Mexico từng được coi là nguy cấp nhưng đã được loại bỏ vào năm 2005.
Mèo đuôi ngắn bị săn bắn do bộ lông và khả năng di chuyển nhưng vẫn duy trì được số lượng. Trong thập kỷ 1970 đến 1980, chúng bị săn bắn với số lượng lớn do giá trị da lông tăng lên, nhưng giá cả đã giảm mạnh vào đầu thập kỷ 1990. Một nửa tỷ lệ tử vong của mèo đuôi ngắn liên quan đến việc kiểm soát săn bắn, vì vậy trong mùa săn bắn mở vào mùa đông, số lượng của chúng sẽ giảm đáng kể.
Mèo đuôi ngắn được liệt kê trong Danh sách đỏ các loài nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) 2008 phiên bản 3.1 – ít nguy hiểm (LC).
Được liệt kê trong Công ước Washington CITES loại II.
Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn việc tiêu thụ động vật hoang dã.
Bảo vệ cân bằng sinh thái, mỗi người đều có trách nhiệm!
Phạm vi phân bố
Phân bố tại Canada (tỉnh British Columbia, Manitoba, New Brunswick, Ontario, Prince Edward Island, Quebec), Mexico, Hoa Kỳ (Alabama, Arizona, Arkansas, California, Colorado, Connecticut, Florida, Georgia, Idaho, Illinois, Indiana, Iowa, Kansas, Kentucky, Louisiana, Maine, Maryland, Massachusetts, Michigan, Minnesota, Mississippi, Missouri, Montana, Nebraska, Nevada, New Hampshire, New Jersey, New Mexico, New York, Bắc Carolina, Bắc Dakota, Ohio, Oklahoma, Oregon, Pennsylvania, Rhode Island, Nam Carolina, Nam Dakota, Tennessee, Texas, Utah, Vermont, Virginia, Washington, West Virginia, Wisconsin, Wyoming). Mèo đuôi ngắn có khả năng thích nghi rất cao. Chúng thích sống trong các khu rừng có cây lá rộng, cây thông hoặc cây gỗ hỗn hợp, nhưng không giống như các loài mèo rừng khác, chúng không phụ thuộc vào rừng mà còn có thể phân bố ở các vùng đất ngập nước đến vùng núi hiểm trở. Chúng có thể xây dựng hang ở gần các khu vực nông nghiệp, nếu ở trong các khe đá, đầm lầy, rừng, chúng có thể ngụy trang bằng cách sử dụng các đốm trên cơ thể. Sự phân bố của mèo đuôi ngắn ở Canada bị ảnh hưởng bởi độ sâu của tuyết và mèo rừng Canada. Mèo đuôi ngắn không thể chống chọi với tuyết dày và sẽ chờ thời tiết xấu qua đi ở nơi có mái che. Chúng không có những bàn chân lớn và dày như mèo rừng Canada, vì thế không thể chống đỡ cơ thể trên tuyết. Mèo đuôi ngắn ở Nova Scotia đã bị thay thế bởi mèo rừng Canada do hoạt động của con người chuyển đổi rừng thông thành đất nông nghiệp. Tại miền Bắc và giữa Mexico, mèo đuôi ngắn sống trong các vùng rừng cây bụi khô, rừng thông và rừng sồi cho đến các vùng nhiệt đới phía nam.
Tập tính hình thái
Mèo đuôi ngắn có chiều dài cơ thể từ 65-120 cm, chiều cao vai 45-58 cm, chiều dài đuôi 9-11 cm, cân nặng 5.8-13.3 kg. Chúng có hình dáng thấp, chắc khỏe, giống như các loài mèo rừng khác, nhưng nhỏ hơn tương đối. Bộ lông của chúng có nhiều màu sắc khác nhau, thường từ nâu vàng và nâu xám, từ xám sáng đến nâu đỏ, lông giữa lưng thường có màu đậm hơn, nhưng khi đến bụng, màu lông sẽ nhạt dần, cơ thể có đốm đen hoặc nâu đậm, những đốm tròn này có thể giúp ngụy trang. Đuôi của mèo đuôi ngắn ngắn và dày, dài nhất lên đến 15 cm, phần đuôi có lông rậm cũng có một số vòng màu tối, đầu đuôi có màu đen. Tai mèo có đầu nhọn màu đen và có lông ngắn. Khuôn mặt của mèo trông rất rộng do lông dưới tai. Mũi có màu hồng, má và bụng có màu kem hoặc xám, phần lưng có màu vàng hoặc nâu đỏ. Mắt có màu vàng, con ngươi màu đen. Con ngươi dài theo chiều dọc, sẽ mở rộng vào ban đêm để thu hút ánh sáng nhiều nhất. Bốn chân của mèo rất mạnh mẽ, chân sau dài hơn một chút so với chân trước, có khả năng leo trèo và nhảy rất tốt. Với sự khác biệt về phân bố địa lý, mèo đuôi ngắn có màu sắc và kích thước hơi khác nhau, mèo đuôi ngắn ở miền Bắc Bắc Mỹ có kích thước lớn hơn và màu sáng hơn, trong khi mèo ở miền Nam có màu sẫm hơn và hơi nhỏ hơn. Mèo đuôi ngắn ở khu vực sa mạc phía Tây Nam có màu lông sáng hơn, trong khi mèo ở rừng phía Bắc có màu tối hơn. Mèo con khi sinh ra đã có lông và đốm. Mèo đuôi ngắn có thính giác và thị giác nhạy bén, khứu giác cũng rất tốt.