Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Giống ngắn
Tên gọi khác: Giống ngắn xám, Giống ngắn thông thường
Cấp bậc: Thú
Họ: Hươu
Chi: Giống ngắn
Dữ liệu cơ thể
Chiều dài cơ thể: 115-125 cm
Cân nặng: 20-30 kg
Tuổi thọ: 8-10 năm
Đặc điểm nổi bật
Chỉ có con đực có sừng, con đực rất hung dữ.
Giới thiệu chi tiết
Giống ngắn (tên khoa học: Pelea capreolus) còn được gọi là Giống xám, Giống thông thường, Giống Rhebok, Giống Vaal Rhebok, không có phân loài.
Giống ngắn hoạt động vào ban ngày, thỉnh thoảng ăn cỏ và nghỉ ngơi, thường có xu hướng nghỉ lại tại những chỗ râm mát vào buổi trưa. Chúng tạo thành hai nhóm xã hội. Nhóm đầu tiên bao gồm nhiều con cái và một con đực chiếm ưu thế, thường gồm khoảng 8 con, nhưng có thể lên tới 30 con. Nhóm xã hội thứ hai bao gồm con đực đơn độc muốn xâm nhập vào nhóm con cái. Trong mùa giao phối, các cuộc chiến giữa con đực lãnh thổ và con đực cô đơn thường xuyên xảy ra, và việc một trong các đối thủ bị giết không phải là điều hiếm gặp.
Thường thì, giống ngắn là một con đực hoạt động cùng với một nhóm con cái, con đực này sẽ bảo vệ nhóm khỏi sự xâm nhập của các con đực khác. Các phương pháp phòng thủ bao gồm thể hiện tư thế cơ thể, tiếng thở và dậm chân, cùng với các trận chiến quyết liệt. Các con đực không thể chiến thắng hoặc duy trì lãnh thổ thường sẽ sống đơn độc. Thường thì, một thành viên trong nhóm đóng vai trò là người canh gác, trong khi các giống ngắn khác thì ăn uống hoặc nghỉ ngơi. Nếu phát hiện nguy hiểm, người canh gác sẽ phát ra tiếng kêu cảnh báo và dẫn dắt đàn đến những nơi hiểm trở hơn. Con đực rất hung dữ, thường giết chết con đực đồng giới trong mùa giao phối, thậm chí còn tấn công cừu và dê.
Giống ngắn là động vật ăn cỏ, cỏ hỗn hợp là thực phẩm chính của chúng, đặc biệt là hoa và lá của thực vật. Chúng cơ bản không phụ thuộc vào nước, lấy hầu hết nước từ thực phẩm.
Hệ thống giao phối của giống ngắn là một con đực nhiều con cái. Vào tháng 4 là mùa giao phối, lúc đó những con đực sẽ tranh giành con cái. Các chú dê non ra đời vào tháng 11-12, trong mùa ấm và ẩm ướt khi bắt đầu. Mỗi lứa thường có một con non, và các chú dê non thường tránh xa mẹ trong vài tháng đầu đời. Con đực trưởng thành trong khoảng 18-21 tháng và sau đó rời khỏi gia đình để bắt đầu cố gắng xây dựng lãnh thổ riêng. Trong tự nhiên, tuổi thọ của chúng là 8-10 năm.
Tính đến năm 2014, mặc dù được cho là không có nguy cơ tuyệt chủng do không thể tiếp cận môi trường sống của giống ngắn, nhưng dữ liệu về số lượng hiện có cho thấy trong 13 khu bảo tồn chính thức trong khu vực phân bố của chúng, ước tính đã giảm khoảng 20% trong ba thế hệ (1999-2014). Điều đáng lo ngại nhất là một trong những quần thể được bảo vệ lớn nhất, Di sản Thế giới Maroti-Drakensberg, ước tính giảm 15-20%. Các số liệu kinh nghiệm đã xác nhận báo cáo về sự sụt giảm hoặc tuyệt chủng cục bộ của số lượng cá thể trong các tỉnh Bắc Tây Cape, Bắc Cape, Mpumalanga và Lesotho. Từ năm 2013, không có ghi nhận nào về giống ngắn trong khu bảo tồn tự nhiên Northwest hoặc “Khu bảo tồn tự nhiên Ohirgstad”. Do đó, giống ngắn được liệt kê là loài gần nguy cấp, vì ước tính mức độ săn bắn gia tăng khiến loài này tiếp tục giảm xuống gần nguy cấp A2bd. Cần có thêm dữ liệu dài hạn để cải thiện độ chính xác về giảm số lượng loài, vì nghi ngờ rằng tình trạng của các quần thể bên ngoài khu bảo tồn cũng khá tồi tệ. Cần phải đánh giá lại loài này sau khi có thêm dữ liệu đáng tin cậy, vì chúng có thể đủ điều kiện để được liệt kê vào danh sách các loài bị đe dọa nhiều hơn. Các nơi mà giống ngắn hiện có nhiều nhất là Di sản Thế giới Maroti-Drakensberg và Vườn quốc gia Golden Gate, cả hai đều có hơn 400 cá thể. Nguyên nhân giảm sút vẫn chưa rõ, nhưng có thể do săn bắn trái phép bằng chó, luyện thịt rừng, bắt nhầm và tỉ lệ ăn thịt gia tăng với các mối đe dọa mới. Cần thiết lập các điểm theo dõi dài hạn để định lượng xu hướng của quần thể và mức độ nghiêm trọng của mối đe dọa.
Được đưa vào Danh sách đỏ các loài bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) phiên bản 2016 ver3.1 – Gần nguy cấp (NT).
Bảo vệ động vật hoang dã, chống lại thịt hoang dã.
Bảo vệ cân bằng sinh thái là trách nhiệm của mọi người!
Phân bố
Giống ngắn là loài đặc hữu của một số khu vực ở Nam Phi, Lesotho và Eswatini, phân bố rải rác trong các môi trường sống phù hợp. Chúng có thể hiếm gặp ở phía tây nam Namibia, nhưng điều này vẫn cần được xác thực. Mặc dù được cho là xuất hiện quanh các đồi ở đông nam Botswana, gần Gaborone, nhưng chúng không còn xuất hiện ở đó nữa. Tương tự, mặc dù không có hồ sơ chính thức nào, nhưng chúng đã từng được ghi nhận là “loài thú có số lượng hợp lý duy nhất” trên toàn bộ lãnh thổ Lesotho, nhưng tính đến năm 2013 có thể chỉ tồn tại trong một số quần thể phân tán. Môi trường sống thường được chọn nằm giữa các tảng đá, phát triển trên sườn núi và cao nguyên, với khả năng mạo hiểm vào các thung lũng đầy cỏ. Các chú dê non thường có xu hướng nép mình trong các hốc đá, hang động hoặc bụi cây khi rời xa mẹ.
Hình thái thói quen
Giống ngắn có chiều dài cơ thể từ 1.15 đến 1.25 mét, cân nặng khoảng 20-30 kg. Lông bao phủ cơ thể chúng dày và xoăn hơn so với tất cả các loài hươu khác, điều này có thể là lý do khiến giống ngắn thường bị nhầm với dê. Phần thân trên có màu xám nâu, mặt và chân màu vàng, phần dưới cơ thể và đuôi màu trắng. Giống ngắn có thể dễ dàng được phân biệt bởi đôi tai dài và thẳng cũng như không có vùng da trần dưới tai. Động vật này có cái mũi dài gọn với miệng nhỏ ở đầu. Trán nhô cao, đôi mắt có mí đen rất nổi bật trên nền trắng. Chỉ có con đực có sừng, sừng dựng đứng hoặc hơi cong về phía trước, dài 200-250 mm. Vùng da trần xung quanh lỗ mũi mở rộng đến đỉnh mũi và phình ra. Khi động vật phấn khích, vùng này sẽ mướt nước. Con cái có 4 núm vú.