Kỳ lân biển

Thông tin cơ bản

Phân loại khoa học

Tên tiếng Việt: Cá kỳ lân Tên khác: Cá một sừng, Cá thương phẩm Lớp: Mammalia Bộ: Cetacea Họ: Monodontidae Chi: Monodon

Dữ liệu về cơ thể

Chiều dài: 4-4.5 mét Cân nặng: 1000-1600 kg Tuổi thọ: Khoảng 50 năm

Đặc điểm nổi bật

Có một chiếc răng dài trên đầu nên có tên gọi như vậy.

Giới thiệu chi tiết

Tên khoa học: Monodon monoceros, tên tiếng Anh: Narwhal, Unicorn Whale, không có phân loài.

Hình ảnh cá kỳ lân

Là một loài động vật được bảo vệ ở Bắc Cực, cá kỳ lân sống theo bầy đàn, chủ yếu sinh sống ở vùng biển Bắc Đại Tây Dương và Bắc Băng Dương, cũng có một số ít cá kỳ lân được phát hiện ở Biển Greenland. Người Inuit rất thích săn bắt răng dài, thịt và da của cá kỳ lân. Các nhà khoa học đã biết rằng cá kỳ lân có thể lặn xuống khoảng 900 mét với góc gần như thẳng đứng trong nước biển và lặp lại hành động này nhiều lần mỗi ngày, thực sự là một bậc thầy lặn.

Cá kỳ lân là động vật ăn thịt, vào mùa đông chủ yếu ăn cá bơn và các sinh vật đáy khác, trong khi vào mùa hè thì ăn chủ yếu là cá tuyết Bắc Cực, cá bơn và các loại cá khác.

Cá kỳ lân sinh sản theo mùa. Thời gian mang thai khoảng 15.3 tháng, mùa giao phối từ tháng 3 đến tháng 5, sinh con vào tháng 7, tháng 8 năm sau. Thời gian cho con bú chưa được biết, nhưng được suy đoán tương tự như thời gian cho con bú của cá beluga (Delphinapterus leucas) là 20 tháng. Khoảng cách giữa các lần sinh thường là 3 năm. Mỗi lần sinh một con (cũng có một số ghi nhận sinh đôi), con non sẽ được kéo ra từ tử cung của cá mẹ, lúc mới sinh, lớp mỡ của cá con dày tới 25 mm, chiều dài từ 1.5 đến 1.7 mét, nặng khoảng 80 kg. Ngay khi sinh, chúng có thể bơi nhưng vẫn được cá mẹ chăm sóc một thời gian. Cả hai giới thường trưởng thành về tình dục khi 4-7 tuổi, cá mẹ trưởng thành có chiều dài 4 mét và nặng 900 kg trong khi cá bố dài 4.7 mét và nặng 1600 kg. Tuổi thọ của cá kỳ lân hoang dã khoảng 50 năm và việc nhân giống trong điều kiện nuôi nhốt vẫn chưa thành công.

Hình ảnh cá kỳ lân

Người ta thường gọi nó là cá biển, bởi vì nó luôn theo sát các tảng băng di chuyển theo mùa. Tập tính sống này có thể liên quan tới kẻ thù chính của cá kỳ lân là cá voi sát thủ. Vì vây lưng của cá voi sát thủ rất cao, nên cần phải tránh va chạm với các tảng băng, trong khi hình dáng của cá kỳ lân dường như được thiết kế để hoạt động trong các khối băng. Chúng không có vây lưng, chỉ có một gờ trước cao 5 cm và dài 10 cm.

Kẻ thù của cá kỳ lân bao gồm cá voi sát thủ, rái cá biển, gấu Bắc Cực và cá mập; tuy nhiên, chúng vẫn không đáng sợ bằng con người. Người Eskimo đã bắt cá kỳ lân để lấy răng dài và da quý giá từ hàng thế kỷ; ăn sống da của chúng cũng là món ăn truyền thống; thịt thì dùng để cho chó ăn, mỡ và dầu dùng để đốt và thắp sáng. Hiện nay, người Inuit ở Canada săn cá kỳ lân bằng tàu máy tốc độ cao và súng bắn mạnh, gây ra những tổn thương không cần thiết, vì ít nhất một nửa số cá kỳ lân bị thương sẽ chìm hoặc chạy trốn, nhưng vẫn khó thoát khỏi cái chết; mặc dù mỗi năm có hàng trăm con trong hạn ngạch săn bắt, số lượng bị giết thường cao hơn nhiều.

Thường thì cá kỳ lân không bị coi là có nguy cơ tuyệt chủng. Thậm chí như vậy, “Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật hoang dã bị đe dọa tuyệt chủng” vẫn đưa cá kỳ lân vào danh sách cần theo dõi và kiểm soát việc giao dịch răng của chúng để phòng tránh việc loài này bị đe dọa tuyệt chủng.

Mặc dù được gọi là “cá kỳ lân”, nhưng chiếc răng dài nhô ra của nó không phải là sừng, mà là một chiếc răng. Chiếc răng dài của động vật biển này có tác dụng gì? Câu hỏi này vẫn khiến các nhà khoa học bối rối, bởi vì mặc dù nó được gọi là răng, nhưng lại không giống như răng trong nghĩa thông thường. Chiều dài của nó gần bằng một nửa chiều dài cơ thể cá kỳ lân, thường mọc ra từ bên trái hàm trên và miệng của cá đực. Hãy tưởng tượng một người cao 2 mét mà có một chiếc răng dài 1 mét thì sẽ trông như thế nào. Ngoài ra, khác với chiếc răng cong của voi và lợn rừng, răng của cá kỳ lân là thẳng theo trời sinh. Ở trên có hoa văn xoắn ốc, xoay quanh cùng một trục theo chiều trái. Các nhà khoa học suy đoán rằng chiếc răng xoắn ốc này có thể giúp giảm thiểu sự gãy vỡ, và các nghiên cứu trước đây cũng cho thấy rằng sự xoắn ốc này giúp ích cho cá kỳ lân trong việc phát triển thẳng hơn. Một điều đặc biệt khác về răng của cá kỳ lân là sự phân biệt giới tính. Chiếc răng dài này rất phổ biến ở cá đực, nhưng cá cái không có chiếc răng dài này. Răng của cá cái cũng sẽ nhô ra nhưng rất ngắn.

Được liệt kê trong Phụ lục II của “Công ước về bảo vệ các loài động vật hoang dã di cư” (CMS).

Được liệt kê trong Phụ lục II của “Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật hoang dã bị đe dọa tuyệt chủng” (CITES).

Được liệt kê trong “Danh sách đỏ các loài nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới” (The IUCN Red List): loài gần nguy cấp (NT), đánh giá năm 2008.

Được liệt kê trong “Danh sách đỏ các loài nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới” (IUCN) năm 2021 – Không nguy cấp (LC).

Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn hương vị hoang dã.

Bảo vệ sự cân bằng sinh thái, trách nhiệm thuộc về mọi người!

Phạm vi phân bố

Nơi sản sinh (vùng biển): Canada, Greenland, Nga, quần đảo Svalbard và đảo Jan Mayen. Nơi di cư (vùng biển): Đức, Iceland, Hà Lan, Na Uy, Anh, Mỹ. Cá kỳ lân là loài cá voi phân bố ở cực Bắc nhất, phân bố không liên tục gần khu vực Bắc cực, hầu hết ở phía Bắc vòng cực và rìa băng, phạm vi hoạt động rất ít khi vượt quá 70 độ vĩ bắc, đặc biệt là thường gặp nhất ở vùng cao Bắc cực Canada, theo thống kê của các nhà sinh vật học, 85% đàn cá kỳ lân phân bố ở vùng cao Bắc cực Canada.

Hình thái tập tính

Cá kỳ lân có đầu nhỏ tròn, mõm không rõ ràng, trán nhô cao, ở phía trước miệng hơi cong lên, cổ có thể hoạt động tự do và có một chút nếp nhăn cổ, răng nanh nhô ra từ hàm trên bên trái, dài có thể đạt 2-3 mét, không có vây lưng, phần lưng có một củ thịt thấp, màu sắc của cơ thể thay đổi rõ rệt theo tuổi tác, cá non có màu xám đốm hoặc nâu xám, từ 1-2 tuổi có màu xám tím, cá trưởng thành có màu xám và có đốm đen hoặc nâu sẫm, cá già gần như hoàn toàn trắng.

Câu hỏi thường gặp