Khỉ đuôi lợn mặt trắng

Thông tin cơ bản

Phân loại khoa học

Tên tiếng Việt: Khỉ mặt trắng

Tên khác: Khỉ mặt trắng Colombia, khỉ đầu trắng, khỉ cổ trắng

Ngành: Động vật có vú

Họ: Khỉ đuôi cụt

Dữ liệu về cơ thể

Chiều dài cơ thể: khoảng 43,5 cm

Cân nặng: 2-4 kg

Tuổi thọ: 25-50 năm

Đặc điểm nổi bật

Phần lưng và mông hoàn toàn màu đen, da má có màu nâu vàng, đầu đội mũ đen

Giới thiệu chi tiết

Khỉ mặt trắng (tên khoa học: Cebus capucinus) có tên tiếng Anh là Colombian White-throated Capuchin, White-faced Capuchin, White-headed Capuchin, tên tiếng Pháp là Sapajou capucin, tên tiếng Tây Ban Nha là Capuchino de Cara Blanca de Colombia, tên tiếng Đức là Weißschulter-Kapuzineraffe, có 2 phân loài.

Khỉ mặt trắng

Mơi trường sống của khỉ mặt trắng khoảng 80 hecta hoặc 0.8 km vuông. Chúng có ý thức lãnh thổ mạnh mẽ, bảo vệ lãnh thổ khỏi sự xâm nhập của các loài khỉ khác. Khi phát hiện ra kẻ xâm nhập, cá thể sẽ phát ra cảnh báo, và cả nhóm sẽ chạy trốn hoặc tấn công xâm phạm.

Khỉ mặt trắng là loài có tính xã hội cao, giao tiếp là rất quan trọng. Cá thể sẽ dành nhiều thời gian để xây dựng mối quan hệ xã hội và xây dựng lòng tin. Ví dụ, một con khỉ sẽ đưa ngón tay vào mũi của một con khỉ khác, sau đó con khỉ đó sẽ lặp lại hành động. Hành động này có thể kéo dài vài phút và thường kết thúc bằng vẻ mặt ngơ ngác. Chúng cũng có thể mút ngón tay và đuôi của nhau trong thời gian dài. Khỉ mặt trắng cũng chơi các trò chơi miệng; một con khỉ sẽ đưa một cái gì đó vào miệng, có thể là ngón tay của một con khỉ khác, một miếng lông hoặc một vật vô tri vô giác. Mục tiêu của trò chơi này là lấy đồ vật ra khỏi miệng của người khác rồi cho trở lại, bắt đầu một trò chơi mới, hoặc chúng luân phiên đổi vai. Khi có kẻ săn mồi đến gần, khỉ mặt trắng sẽ phát ra âm thanh run rẩy để phối hợp chuyển động của nhóm. Có nhiều tiếng kêu cảnh báo khác nhau được sử dụng để thông báo cho các khỉ khác về sự xuất hiện của kẻ săn mồi hoặc kẻ xâm nhập.

Khỉ mặt trắng

Khỉ mặt trắng sống trong các nhóm đa con đực, đa con cái từ 18-20 con. Con đực sẽ rời khỏi khoảng 4 tuổi và tìm vị trí trong một nhóm mới. Đây là loài linh trưởng hoạt động vào ban ngày, rất năng động vào ban ngày và ngủ vào ban đêm. Chúng rất hiếu động và tò mò, tham gia vào nhiều trò chơi và thích khám phá đồ đạc. Hành vi này phổ biến hơn trong môi trường nuôi nhốt nhưng cũng xảy ra trong tự nhiên. Khỉ mặt trắng rất năng lượng và hoạt bát. Trò chơi xã hội rất phổ biến trong tất cả các thành viên của nhóm, đặc biệt là ở thanh thiếu niên, sẽ dành nhiều thời gian chơi và vật lộn. Thanh thiếu niên cũng phụ thuộc nhiều vào việc học xã hội; chúng quan sát các cá thể trưởng thành để học các hành vi và kỹ năng cơ bản.

Khỉ mặt trắng ăn một loạt các thực vật và động vật. Chế độ ăn chủ yếu của chúng là trái cây và hạt, nhưng côn trùng, động vật không xương sống khác và động vật có xương sống nhỏ cũng thỉnh thoảng được ăn. Các động vật có xương sống mà chúng ăn bao gồm sóc, chuột, thằn lằn và chim. Thức ăn khác nhau theo vùng và mùa, nhưng thường chứa khoảng 50%-80% trái cây, 20%-30% động vật và 10% thực vật khác. Chúng luôn ăn và khá mạo hiểm trong việc lựa chọn thực phẩm, gần như thử nếm mọi thứ và thông qua thử nghiệm để hiểu điều gì là có thể ăn được hoặc không. Một nghiên cứu cho thấy khỉ mặt trắng đã ăn 63 loài thực vật thuộc 34 họ tại Công viên Santa Rosa. Chúng là những người tìm kiếm thực phẩm rất giỏi từ bé. Khi mới 1 tuổi, chúng đã gần như có thể tìm kiếm thức ăn giống như khỉ trưởng thành, chỉ có hạn chế về kích thước và sức mạnh.

Khỉ mặt trắng

Kẻ thù tự nhiên phổ biến nhất của khỉ mặt trắng là rắn, đặc biệt là loài rắn cây (Corallus) và loài rắn gai (Bothrops), cá sấu yacaré, báo đốm và mèo báo cũng săn đuổi các khỉ mặt trắng này. Khi phát hiện ra kẻ săn mồi, khỉ mặt trắng sẽ phát ra tiếng cảnh báo. Sống trong các nhóm xã hội gần gũi giúp chúng cảnh giác với kẻ săn mồi. Các nhóm có thể đào tẩu hoặc tấn công đối thủ dưới nguy cơ từ kẻ săn mồi.

Khỉ mặt trắng là loài một chồng nhiều vợ, cả con đực và con cái đều có nhiều bạn tình. Có sự phân cấp giữa các con đực, con đực đứng đầu có nhiều cơ hội giao phối hơn. Tuy nhiên, các con đực cấp dưới cũng có thể giao phối. Con đực đứng đầu sẽ dành phần lớn thời gian để ngăn chặn kẻ săn mồi và con đực từ bên ngoài. Việc cung cấp sự bảo vệ này cho nhóm của mình khiến con đực đứng đầu có lợi thế lớn hơn các con đực khác trong việc giao phối. Các con đực và đực sẽ thực hiện một loạt âm thanh, biểu cảm khuôn mặt và tư thế đặc biệt trước khi giao phối. Con cái sẽ sinh một con non mỗi khoảng 2 năm. Sinh sản có tính mùa vụ, từ tháng 1-4 là thời điểm cao điểm. Giao phối cũng có thể xảy ra ngoài các tháng này nhưng hiếm khi dẫn đến thụ thai. Thời gian mang thai trung bình kéo dài 160 ngày.

Con cái trưởng thành vào khoảng 4 tuổi, nhưng thường đến 7 tuổi mới sinh con. Con đực trưởng thành khoảng 7-10 tuổi. Việc nuôi dưỡng những con khỉ con chủ yếu do mẹ thực hiện. Con cái mang thai, bảo vệ và nuôi dưỡng con non cho đến khi chúng có thể tự chăm sóc bản thân. Con đực không giúp chăm sóc khỉ con, nhưng một khi khỉ con trưởng thành và độc lập, con đực sẽ giúp đỡ các khỉ mặt trắng trẻ khác trong nhóm. Con đực đứng đầu giúp bảo vệ các thành viên trong nhóm khỏi kẻ xâm phạm và kẻ săn mồi.

Khỉ mặt trắng

Khỉ mặt trắng nuôi trong điều kiện nuôi nhốt có thể sống lâu nhất lên đến 55 năm. Tuổi thọ của khỉ sống ngoài tự nhiên có thể chưa đến một nửa. Những yếu tố như bị săn mồi, bệnh tật và nhiễm trùng vết thương do đánh nhau đều dẫn đến cái chết của nhiều con khỉ mỗi năm. Việc chặt cây, khai thác gỗ và phá hủy rừng là nguyên nhân chính gây ra cái chết cho khỉ mặt trắng, vì điều này giảm đáng kể môi trường sống thích hợp. Do sự thoái hóa môi trường sống và buôn bán thú cưng, số lượng loài này đã giảm 30% hoặc hơn trong ba thế hệ.

Được xếp hạng trong danh sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) phiên bản 2020 ver3.1 – Nhóm dễ bị tổn thương (VU).

Được xếp hạng trong Phụ lục I, II và III của Công ước Quốc tế về Buôn bán Động thực vật hoang dã (CITES) phiên bản 2019 Phụ lục II.

Bảo vệ động vật hoang dã, tránh xa món thịt rừng.

Bảo vệ cân bằng sinh thái, trách nhiệm của tất cả mọi người!

Phạm vi phân bố

Khỉ mặt trắng có nguồn gốc từ khu vực nhiệt đới mới ở Trung Mỹ. Phân bố ở Honduras, Nicaragua, Costa Rica, Panama và Ecuador ven biển, cũng như đảo Gorgona ở Colombia. Có báo cáo về một số cá thể ở miền nam Argentina. Loài này là một trong những loài khỉ được phân bố rộng rãi nhất ở toàn bộ châu Mỹ. Khỉ mặt trắng có khả năng thích ứng cao, sống trong nhiều loại môi trường sống khác nhau. Chúng sống trong các khu rừng ẩm, khô, nguyên sinh và thứ sinh, nhưng thích nhất là rừng xanh nhiệt đới và rừng lá rụng khô. Loại hình sống của chúng là các khu rừng rậm rạp ở độ cao lên đến 2100 mét, nhưng chủ yếu chiếm lĩnh ở độ cao khoảng 1100 mét. Loài này thường thấy ở các khu vực thấp ẩm ướt và thoát nước tốt. Thỉnh thoảng chúng xuất hiện ở chân núi lửa và vùng đồng bằng ven biển.

Hình thái hành vi

Khỉ mặt trắng đực nặng từ 3-4 kg, con cái nặng từ 2-3 kg. Đây là sự khác biệt giới giữa các loại khỉ đuôi cụt lớn nhất. Loài này có đặc điểm riêng biệt giúp phân biệt chúng với các loài khỉ khác. Lưng và mông của chúng hoàn toàn màu đen, trong khi lông quanh ngực, cánh trước và khuôn mặt có màu trắng. Da má có màu nâu vàng, đầu đội mũ đen. Chúng có đuôi có thể cuộn lại, dùng để nắm giữ và mang theo thức ăn và để hỗ trợ tư thế. Loài này đạt kích thước trưởng thành vào khoảng 8 tuổi. Chúng chủ yếu là động vật đi bốn chân, nhưng cũng là những kẻ nhảy giỏi và leo trèo giỏi.

Câu hỏi thường gặp