Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Chuột túi đuôi ngắn
Tên khác: Chuột túi xám đuôi ngắn, chuột túi nhỏ đuôi ngắn
Ngành: Ngành thú có vòi
Họ: Họ chuột túi, ngành động vật có vú, ngành sống lưng
Dữ liệu về đặc điểm
Chiều dài cơ thể: 40-54 cm
Cân nặng: 1,5-4,5 kg
Tuổi thọ: 10 năm
Đặc điểm nổi bật
Thân hình thấp và mập, chân sau phát triển, tai tròn, đầu ngắn và rộng, toàn thân có lông thô màu nâu, vùng mặt và cổ hơi có màu đỏ. So với các họ chuột túi khác, đuôi ngắn hơn, do đó có tên gọi này. Đây là một trong những loài chuột túi nhỏ nhất, với khả năng nhảy vọt đáng kinh ngạc, có thể nhảy lên tới 1,5 mét, tương đương với 3-4 lần chiều dài cơ thể. Nụ cười của chúng được coi là “loài động vật hạnh phúc nhất trên thế giới”.
Giới thiệu chi tiết
Chuột túi đuôi ngắn (tên khoa học: Setonix brachyurus) là loài động vật có vú thuộc họ chuột túi, là một trong những loài chuột túi nhỏ nhất và trông giống như chuột. Với gương mặt mũm mĩm và nụ cười “ngọt ngào”, chúng được gọi là “loài động vật hạnh phúc nhất trên thế giới”. Chúng rất thân thiện, là một đặc sản du lịch địa phương và được du khách yêu thích. Thân hình thấp và mập, chân sau phát triển, tai ngắn và tròn, mũi tròn và đầu ngắn và rộng, có vạch tối trên trán. Lông toàn thân thô và nâu, vùng mặt và cổ hơi đỏ. Chiều cao không vượt quá 60 cm. Lông dày, thô và có màu nâu xám, màu lông trên lưng nhạt hơn, nhưng chân lại nhẹ để có thể di chuyển với tốc độ lớn xuyên qua bụi rậm. Thân hình mập mạp và chắc chắn, có dáng đi hơi cong. Có đuôi ngắn rõ rệt. Khác với những loài cùng họ, chuột túi đuôi ngắn có chân sau ngắn và phát triển và dường như không có lông trên đuôi. Cân nặng trung bình từ 1,5-4,5 kg, chiều dài 40-54 cm, chiều dài đuôi 26-30 cm. Tuổi thọ trung bình là 10 năm.
Chuột túi đuôi ngắn sống chủ yếu trên đảo Rottnest, một số ít sống trong rừng phía tây nam Australia. Chúng cư trú trong các vùng ngập nước và thích hoạt động vào ban đêm. Sống theo hộ gia đình. Là loài ăn cỏ, chúng ăn nhiều loại cỏ và bụi rậm. Khi thiếu thức ăn, chúng có thể sử dụng lượng mỡ tích trữ trong đuôi để lấy năng lượng. Thời gian mang thai khoảng 26 ngày, mỗi lần sinh ra 1 con non.
Chuột túi đuôi ngắn là một loại chuột túi đặc trưng của Australia. Do sự săn lùng từ động vật hoang dã (như mèo và cáo), sự thay đổi trong mô hình cháy rừng và mất môi trường sống, số lượng còn lại hiện nay rất ít, thuộc danh sách đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) – loài nguy cấp.
Phân bố địa lý
Chuột túi đuôi ngắn (tên khoa học: Setonix brachyurus), là thành viên duy nhất của họ chuột túi đuôi ngắn, là một loài chuột túi nhỏ, có kích thước tương đương với một con mèo nhà.
Chúng thường có mặt ở nhiều sinh cảnh khác nhau, phổ biến nhất ở rừng rậm, thảo nguyên mở và bụi rậm gần vùng nước ngọt. Mặc dù có vẻ chúng ưa thích các khu vực có thực vật dày đặc và ẩm ướt, nhưng chúng cũng sinh sống nhiều ở các khu vực khô hạn và khắc nghiệt như đảo Rottnest và đảo Bald gần Albany. Chuột túi đuôi ngắn sống theo cách tụ tập trong một không gian nhỏ của Khu bảo tồn tự nhiên trong hai vịnh, sống chung với chuột túi mũi dài Gilbert. Tại khu vực đất liền Australia, chuột túi đuôi ngắn có thể chỉ xuất hiện quanh các vùng có thực vật dày đặc, thường chọn bụi rậm hoặc những nơi tối tân khác để tránh khỏi cái nóng của mùa hè, chúng dành hầu hết thời gian trong năm ở đó nhưng thỉnh thoảng cũng thay đổi địa điểm. Cũng như các loài động vật có túi khác, chuột túi đuôi ngắn là loài ăn cỏ và thường hoạt động vào ban đêm.
Là loài đặc hữu của tây nam Australia, bao gồm các đảo Rottnest (17 km²) và Bald (8 km²), cũng như đảo Breaksea (1 km²). Trước đây chúng phân bố trong khu vực cách Perth 100 km về phía bắc, qua các khu vực có mưa nhiều ở tây nam, dọc theo bờ biển phía nam ít nhất đến dãy núi Green cách Albany 60 km về phía đông bắc. Đến năm 2012, những ghi nhận ở phía bắc của chúng nằm ở phía đông và đông bắc Perth, tại dãy núi Darling. Loài này cũng xuất hiện rời rạc dọc theo bờ biển phía nam ở phía đông dãy núi Green, bao gồm một quần thể cô lập trong công viên quốc gia dãy núi Sterling.
Đặc điểm hình thái
Cân nặng của chuột túi đuôi ngắn từ 2,5-5 kg (5,5-11,0 lbs), chiều dài cơ thể từ 40-54 cm (16-21 inch), chiều dài đuôi từ 25-30 cm (9,8-11,8 inch), đuôi của chúng ngắn hơn so với các thành viên khác trong họ chuột túi. Chuột túi đuôi ngắn có thân hình khỏe mạnh, tai tròn và đầu ngắn và rộng. Mặc dù trông như một con chuột túi nhỏ, nhưng chúng có thể leo trèo trên những cây nhỏ và bụi rậm. Lông xù xì có màu nâu xám, phần dưới nhạt hơn, có màu vàng nhạt.
Chuột túi đuôi ngắn không sợ con người, việc lại gần chúng là điều bình thường, đặc biệt là trên đảo Bald gần Albany. Tuy nhiên, việc công chúng chạm vào động vật trên đảo dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm pháp luật, cá nhân vi phạm sẽ bị phạt 300 AUD. Nếu bị truy tố, hình phạt tối đa có thể lên tới 2000 AUD.
Chuột túi đuôi ngắn là một trong những loài động vật có vú đầu tiên mà người châu Âu phát hiện ở Australia. Thủy thủ Hà Lan Samuel Volckertzoon đã viết rằng ông đã thấy “mèo hoang” trên đảo Rottnest vào năm 1658. Năm 1696, Willem de Vlamingh đã nhầm chuột túi đuôi ngắn với chuột khổng lồ và đặt tên cho hòn đảo là “Rottenest”, cái tên có nguồn gốc từ tiếng Hà Lan nghĩa là “tổ chuột”. Từ quokka có thể có nguồn gốc từ từ gwaga trong ngôn ngữ của người Nunga.
Sinh thái học
Trong tự nhiên, phạm vi hoạt động của chuột túi đuôi ngắn bị giới hạn trong một khu vực nhỏ ở tây nam Tây Australia, và sống theo nhóm nhỏ. Trên đảo Rottnest có một quần thể lớn, chuột túi đuôi ngắn sống trong nhiều loại sinh cảnh khác nhau, từ những bụi cây khô nửa chừng cho đến đồn điền. Hình ảnh của chúng rất phổ biến. Trong khi đó, ở đảo Bald gần Albany có một quần thể nhỏ, không có cáo và mèo.
Quần thể
Mặc dù chuột túi đuôi ngắn có nhiều trên các đảo ven biển, nhưng phạm vi phân bố rất hạn chế, và chúng được xếp vào loài dễ bị tổn thương. Trên đất liền Australia, chúng bị đe dọa bởi những kẻ săn mồi như cáo, vì vậy cần có lớp thực vật dày đặc để làm chỗ trú ẩn. Việc chặt phá rừng và phát triển nông nghiệp đã giảm đi môi trường sống của chúng, dẫn đến sự suy giảm số lượng loài. Các vấn đề cũng trở nên nghiêm trọng khi diện tích đầm lầy bị tẩy chay và sự xâm nhập của mèo, chó và chó hoang Australia. Hơn nữa, chuột túi đuôi ngắn thường chỉ sinh ra một con non trong một lần, có thể nuôi sống một con non mỗi năm. Dù chúng có thể sinh sản liên tục, thường sau một ngày khi con non được sinh ra, nhưng với số lượng nhỏ trong mỗi lần sinh, cùng với sự hạn chế phạm vi hoạt động và bị đe dọa bởi kẻ săn mồi, khiến loài chuột túi nhỏ này trở nên hiếm ở đất liền.
Tập tính sống
Tập hợp: Chuột túi đuôi ngắn sống theo hộ gia đình nhỏ, được quản lý bởi một lớp người thống trị hình thành từ những con đực trưởng thành. Cấu trúc này thường ổn định ngoài những ngày hè oi ả. Phạm vi hoạt động của gia đình chuột túi đuôi ngắn chồng chéo cho thấy chúng không có tính lãnh thổ, chúng là loài động vật rất thân thiện và thường hòa bình chia sẻ môi trường sống, không xảy ra tranh chấp do sự hiện diện của 150 cá thể khác trong cùng một phạm vi. Tuy nhiên, vào những ngày hè nóng, những con đực cũng có thể chiến đấu để giành chỗ trú tốt nhất.
Tìm kiếm thức ăn: Chuột túi đuôi ngắn nghỉ ngơi tập trung trong thực vật dày vào ban ngày và rất hoạt động vào ban đêm, thường nhóm lại để tìm thức ăn nơi có thực vật che chở. Chúng ăn cỏ, lá, hạt và củ. Nghiên cứu cho thấy một loại thực vật có hoa địa phương là một trong những món ăn yêu thích của chuột túi đuôi ngắn. Chúng thường đào hố để lấy nước hoặc xé nhánh thực vật mọng nước như xương rồng để lấy nước ngọt, mặc dù thực tế chúng có thể không cần uống nước trong nhiều tháng nhờ khả năng đặc biệt của mình để sử dụng lại nhiều chất thải.
Sinh tồn: Thời gian dài không có mưa dẫn đến cái nóng, khô và mất nước, khiến những cá thể cách xa nguồn nước có tỷ lệ tử vong cao hơn. Ngoài ra, nhiệt độ cao làm thực vật thiếu nước và gây thiếu nitơ, cũng khiến chuột túi đuôi ngắn dễ bị thiếu nitơ. Chuột túi đuôi ngắn có thể bị mất nước nhưng nghiên cứu cho thấy rằng những con chuột túi này có khả năng điều chỉnh nhiệt độ tốt, có thể chịu đựng nhiệt độ lên tới 44 độ C. Đặc điểm nhỏ bé và khả năng nhảy vọt mạnh mẽ khiến chúng trở thành những bậc thầy trong bụi rậm, chúng tạo ra các đường thoát hiểm trong thảm thực vật dày để đối phó với mối đe dọa từ kẻ săn mồi.
Cảm nhận: Chuột túi đuôi ngắn lấy thông tin thông qua xúc giác và tín hiệu hóa học.
Phương pháp sinh sản
Là loài sinh sản bằng cách sinh con, trung bình mỗi năm sinh 1 con non. Thời gian chu kỳ động dục của con cái là 28 ngày. Trong điều kiện nuôi nhốt, chúng có thể sinh sản quanh năm, nhưng trong tự nhiên, thời gian không động dục của con cái thường từ tháng 8 đến tháng 1 năm sau. Vào ngày hôm sau sau khi con non được sinh ra, con mẹ sẽ bước vào giai đoạn ngừng phát triển chung. Trong tự nhiên, chúng thường phối giống từ tháng 1 đến tháng 3. Sau thời gian mang thai ngắn 4 tuần, chuột mẹ sẽ sinh ra một con nhỏ gọi là “joey”. Thời gian trong túi thường kéo dài 6-7 tháng, trong giai đoạn này, joey sẽ dần phát triển và biết cách thoát ra khỏi túi, trong trường hợp hoảng sợ hoặc lạnh, nó sẽ trở lại túi, nhưng còn cần thêm hơn 2 tháng cho giai đoạn cho bú.
Thời gian trưởng thành trung bình của con đực là 389 ngày, của con cái là 252 ngày. Trong trạng thái tự nhiên, tuổi thọ trung bình của con đực là 10 năm, của con cái cũng là 10 năm, trong điều kiện nuôi nhốt, tuổi thọ của con cái trung bình là 7 năm. Tuổi thọ trung bình tổng hợp là 5 năm.
Ước tính số lượng cá thể trưởng thành trên toàn cầu là từ 7.850 đến 17.150. Số lượng quần thể khu vực ước tính như sau: đảo Rottnest có từ 4.000 đến 8.000 con, đảo Bald từ 500 đến 2.000 con, rừng đỏ phía bắc từ 150 con, rừng phía nam từ 2.000 đến 5.000 con, bờ biển phía nam từ 1.200 đến 2.000 con.
Các yếu tố đe dọa
Trước sự xuất hiện của những người thực dân châu Âu ở tây nam Australia, số lượng chuột túi đuôi ngắn rất nhiều và phân bố rộng rãi. Tuy nhiên, sự xuất hiện của những kẻ săn mồi đã được thuần hóa bởi con người như mèo, cáo và chó, cũng như sự thu hút của các loài động vật sống gần các khu định cư của con người, bao gồm các loài chim săn mồi và chó hoang, đã làm giảm mạnh số lượng quần thể chuột túi đuôi ngắn trong môi trường sống. Khi môi trường sống trở thành khu định cư của con người ngày càng nhiều, chúng chỉ còn ít không gian sinh sống tự nhiên ở đất liền Australia. Việc giảm nơi nghỉ ngơi vào ban ngày được coi là dấu hiệu cho sự giảm số lượng quần thể. Ngoài ra, đảo Rottnest được phát triển thành nơi giải trí, giảm môi trường sống của chuột túi đuôi ngắn và làm tăng sự lây lan của bệnh tật. Mỗi năm có nhiều du khách đến thu hút chúng để cho ăn, thay đổi thói quen ăn uống và thói quen ban ngày của chúng, thường dẫn đến tình trạng sức khỏe kém.
Các biện pháp bảo護
Australia đã ban hành một kế hoạch phục hồi cho quần thể chuột túi đuôi ngắn vào tháng 12 năm 2013. Bộ Môi trường và Bảo tồn Tây Australia chịu trách nhiệm bảo vệ chuột túi đuôi ngắn, cơ quan này cũng quản lý hầu hết các môi trường sống của chuột túi đuôi ngắn, những khu vực này nằm trong rừng quốc gia, công viên quốc gia và khu bảo tồn tự nhiên, bao gồm cả đảo Bald. Australia đã tiến hành nghiên cứu sâu rộng về hệ sinh thái và bảo tồn chuột túi đuôi ngắn trong rừng yağm phía bắc và thực hiện các khảo sát đặc biệt ở những nơi khác trong phạm vi của nó. Hướng dẫn quản lý khai thác gỗ (Burrows và Liddelow, 2005) và hướng dẫn quản lý cháy (Burrows et al., 2007) đã được ban hành. Đảo Rottnest chủ yếu được quản lý bởi Cơ quan quản lý đảo Rottnest cho mục đích giải trí.
Phạm vi phân bố
Xuất hiện trong nhiều sinh cảnh khác nhau, phổ biến nhất ở các rừng rậm, các vùng đất hoang và các bụi rậm gần vùng nước ngọt. Mặc dù chúng có vẻ ưu thích những khu vực có thực vật dày và ẩm, nhưng chúng cũng sinh sống nhiều ở các khu vực khô hạn và khắc nghiệt như đảo Rottnest và đảo Bald gần Albany.
Tập tính hình thái
Thân hình thấp và mập, chân sau phát triển, tai tròn và đầu ngắn, có vùng trán với vạch tối. Lớp lông thô màu nâu bao phủ toàn bộ cơ thể, vùng mặt và cổ hơi có màu đỏ. Chiều cao không vượt quá 60 cm. Lông dày và thô có màu nâu xám, lông trên lưng có màu nhạt hơn, nhưng những chân của chúng lại nhẹ nhàng để có thể di chuyển nhanh qua bụi rậm. Cơ thể chắc chắn và mập mạp, dáng đứng hơi cong. Đuôi ngắn rõ ràng. Khác với các đồng loại, chuột túi đuôi ngắn có chân sau ngắn và phát triển, gần như không có lông trên đuôi. Cân nặng từ 1,5-4,5 kg, chiều dài cơ thể từ 40-54 cm, và chiều dài đuôi từ 26-30 cm.