Hươu đuôi ngắn xám

Thông tin cơ bản

Phân loại khoa học

Tên tiếng Trung: Hươu ngắn xám

Tên khác: Hươu Mexico nâu

Thú lớp: Nguyên thảo

Họ: Hươu thuộc bộ Guocong

Số liệu cơ thể

Chiều dài cơ thể: 88,2-106 cm

Cân nặng: 11-25 kg

Tuổi thọ: Chưa có tài liệu xác thực

Đặc điểm nổi bật

Nó nhỏ hơn hươu đỏ một chút, lưng thẳng hơn, bộ lông có màu từ nâu xám đến nâu đỏ.

Giới thiệu chi tiết

Hươu ngắn xám (tên khoa học: Mazama gouazoubira), tiếng Anh là Gray Brocket/Brown Brocket, tiếng Tây Ban Nha là Cabra Silvestre/Corzuela Común/Corzuela Parda/Guazu/Guazu Virá, tiếng Bồ Đào Nha là Corça/Veado-catingueiro, có 11 phân loài.

Hươu ngắn xám

Trong các khu vực nghiên cứu nuôi nhốt, vùng lãnh thổ của hươu cái thường có sự chồng chéo, trong khi vùng lãnh thổ của hươu đực được coi là độc quyền. Thông thường, chúng là động vật sống đơn độc. Rất ít khi xuất hiện thành nhóm hơn 3 cá thể. Ban ngày, chúng thường ẩn nấp trong những khu vực có cây cỏ rậm rạp, nhưng vào ban đêm sẽ xuất hiện để kiếm ăn ngoài trời.

Hươu ngắn xám giao tiếp chủ yếu bằng cách đánh dấu bằng mùi hương, bao gồm cả việc đi tiểu, đại tiện, chà xát trán và gõ vào vật thể. Tần suất đánh dấu giữa các con cái và giữa các con đực với nhau và với tuổi non có sự khác biệt. Cũng quan sát thấy rằng, so với những con đực thường đánh dấu bên ngoài vùng lãnh thổ của mình, hươu cái và hươu non có tần suất đánh dấu trong vùng lãnh thổ chính của mình cao hơn. Giống như hầu hết các động vật có vú, có thể còn một số hình thức giao tiếp khác. Những con hươu này có thể sử dụng tiếng kêu, tín hiệu hình ảnh và ngôn ngữ cơ thể để giao tiếp, trong đó tín hiệu tiếp xúc cơ thể có thể đóng vai trò quan trọng giữa mẹ và con cũng như giữa các cặp đôi.

Hươu ngắn xám chủ yếu ăn trái cây, đặc biệt là trong mùa mưa từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau. Chúng tập trung vào việc lấy các loại trái cây mềm và mọng nước từ các cây bụi. Trong mùa khô, chúng ăn nhiều hơn các sản phẩm từ các cây Zyzyphus oblongifoia và Casesalpinia paraguarensis, cây khô mùa (từ tháng 2 đến tháng 10) với trái cây khô và cứng. Do sự hạn chế nước ở các khu vực như Chaco và mùa khô, hươu thường ăn các loại rễ và lá mọng nước, cũng như các trái cây như dứa và xương rồng để thỏa mãn nhu cầu nước của chúng. Hươu ngắn xám cũng là động vật ăn cỏ và thực vật, chúng cũng ăn rễ, cành, hoa, mầm, vỏ cây và lá của các loại cây, một số loài là theo mùa, một số là hàng năm.

Hươu ngắn xám

Trừ tháng 5, tháng 6 và tháng 7 ở Argentina và Bolivia, hươu ngắn xám hầu như sinh sản quanh năm. Thời gian sinh sản ở Brazil thường liên quan đến mùa mưa. Thời gian mang thai khoảng 7-8 tháng. Thông thường mỗi lần đẻ một con non, sinh đôi rất hiếm. Con non thường ngụy trang trong đám cỏ, mẹ hươu chăm sóc cho con cho đến khi cai sữa. Tập tính nuôi con tương tự như ở hươu đuôi trắng. Cũng phát hiện rằng có tình trạng vừa cho con bú vừa mang thai. Trong một số cá thể hươu cái non, có sự phát hiện các nang trứng đang phát triển, cho thấy giai đoạn sinh sản bắt đầu sớm. Độ tuổi sinh sản của các cá thể hươu cái tương tự với hươu đuôi trắng, chúng có thể đến tuổi dậy thì ở khoảng một tuổi. Điều kiện sừng của hươu đực cũng ủng hộ quan điểm sinh sản quanh năm. Có thể quan sát thấy các con đực có sừng láng bóng vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Hươu đực xuất hiện sừng vào tháng 1, tháng 5 và tháng 6, và bắt đầu mọc sừng bóng từ tháng 5 đến tháng 11. Rõ ràng rằng các con đực rụng sừng mỗi 18 tháng đến 2 năm, nhưng sự khác biệt giữa các cá thể là rất lớn.

Không có bằng chứng cho thấy hươu ngắn xám có sự phân tán trong quần thể, loài này vẫn phong phú ở phần lớn vùng lãnh thổ của mình, nhưng quần thể gần khu vực dân cư của con người có thể giảm thiểu hoặc biến mất. Mật độ quần thể rất khác nhau. Ở Brazil, mật độ là 0.35-1 con trên mỗi km² (năm 1997), ở Bolivia, mật độ là 5-12 con trên mỗi km² (năm 2004).

Tại Argentina, do “khám phá bắn thú” quốc tế, áp lực săn bắn và mất môi trường sống, số lượng hươu ngắn xám đã giảm đáng kể (Julia 2002). Tại Bolivia, mặc dù áp lực săn bắn là lớn, nhưng số lượng dường như vẫn không đổi. Tại Brazil, đây là loài hươu phong phú nhất tại quốc gia này, nhưng số lượng quần thể đang giảm ở một số khu vực (Rio Grande do Sul). Tại Paraguay, tổng số lượng vẫn không đổi, nhưng loài này đã biến mất khỏi các khu vực đô thị hóa gần đây và những nơi có mật độ dân số cao. Nói chung, do việc bị săn bắn bởi chó săn cũng như mất môi trường sống, tổng thiệt hại là rất lớn.

Được xếp vào Danh sách Đỏ các loài cực kỳ nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) năm 2015 ver3.1 – Không nguy cấp (LC).

Bảo vệ động vật hoang dã, không tiêu thụ thịt rừng.

Giữ gìn sự cân bằng sinh thái, mọi người đều có trách nhiệm!

Phạm vi phân bố

Phân bố ở Argentina, Bolivia, Brazil, Paraguay và Uruguay. Hươu ngắn xám chủ yếu phân bố tại các khu vực khô hạn phía đông Nam Mỹ, khu vực trước dãy Andes ở Argentina và Bolivia, kéo dài sang bờ biển Đại Tây Dương, giới hạn phía bắc ở phía nam khu vực Amazon, và phía nam bao gồm toàn bộ Uruguay cho đến tỉnh Entre Ríos ở Argentina. Mặc dù có báo cáo rằng loài này phân bố rộng khắp Brazil, nhưng bằng chứng năm 2003 cho thấy nó được thay thế bởi hươu ngắn Amazon (M. nemorivaga) ở khu vực Amazon. Hươu ngắn xám xuất hiện ở các khu vực có độ ẩm vừa phải đến khô, nơi có vùng cây cối hoặc cây bụi. Thường thấy ở những khu vực mở, như cây nhọn bụi rậm trong vùng Chaco Venezuela và Gran Sabana. Những con hươu này có thể tồn tại ở những khu vực rất khô hạn, hoặc sinh sống ở các vùng đồng cỏ thưa, vùng ngập nước hoặc rìa của thảm thực vật thứ cấp và rừng chuyển tiếp, bao gồm nhiều loại vườn trồng trọt gần như có sự che chở.

Hành vi và hình thái

Hươu ngắn xám là loài hươu có kích thước trung bình nhỏ, chiều dài thân 882-1060 mm, chiều dài đuôi 83-190 mm, chiều dài tai 95-121 mm, chiều cao vai 500-650 mm, cân nặng 11-25 kg. Hươu ngắn xám nhỏ hơn hươu đỏ chút ít. Lưng của hươu ngắn xám thẳng hơn, khiến dáng vẻ giống hươu hơn. Bộ lông của loài này có màu từ nâu xám đến nâu đỏ. Màu lông hai bên cơ thể nhạt hơn. Hươu đực có sừng đơn giản, dài khoảng 7-10 cm. Mặt dưới đuôi có màu trắng. Ở Brazil, thường xuyên có báo cáo về sự khác biệt trong màu lông, sinh thái và cá thể giữa các khu vực khác nhau của hươu ngắn xám. Những cá thể sống trong đồng cỏ thường có màu nâu nhạt, trong khi quần thể sống trong rừng thường có màu sẫm và xám hơn, một số cá thể trong quần thể có sự khác biệt khá lớn.

Câu hỏi thường gặp