Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Cá ngựa mỏ dài
Tên gọi khác: Cá ngựa mập, Cá ngựa có mỏ dài
Ngành: Cá nhỏ
Họ: Cá gai
Chi: Cá ngựa
Dữ liệu đặc điểm
Chiều dài cơ thể: Khoảng 17.5 cm
Cân nặng: Khoảng 20g
Tuổi thọ: 3-5 năm
Đặc điểm nổi bật
Cá ngựa mỏ dài có thể được giữ làm cá cảnh, đây là một trong những loại cá ngựa phổ biến nhất trong các thủy cung công cộng, cũng như là một trong những loại cá ngựa được ưa chuộng nhất trong thương mại thủy sản quốc tế.
Giới thiệu chi tiết
Cá ngựa mỏ dài (tên khoa học: Hippocampus reidi), với tên tiếng Anh là Long-snout Seahorse, là một loại cá thuộc họ Cá ngựa và chi Cá ngựa.
Cá ngựa mỏ dài thường sống đơn độc nhưng sẽ cặp đôi trong mùa giao phối. Chúng bơi chủ yếu bằng cách rung động nhanh các vây lưng và vây ngực. Cá ngựa mỏ dài chủ yếu ăn động vật giáp xác, trong khi cá con thường tiêu thụ trứng của côn trùng cánh màng, động vật thân mềm và giáp xác. Chúng thường không đuổi theo mồi, nhưng đôi khi sẽ chủ động truy đuổi. Vào ban đêm, cá ngựa mỏ dài sẽ ngừng ăn và bơi, quấn đuôi vào một vật để nắm chắc cho đến lúc bình minh.
Cá ngựa mỏ dài là loài đẻ trứng. Chúng có thể sinh sản quanh năm, nhưng ghi nhận đỉnh điểm sinh sản ở Đông Bắc Brazil từ tháng 5 đến tháng 11. Cá đực đạt độ tuổi sinh sản khi dài khoảng 9.5 cm, nhưng phải đạt 12.4 cm mới có túi ấp trứng trưởng thành; cá cái đạt độ tuổi sinh sản khi dài 8.8 cm. Hành vi tán tỉnh bao gồm sự đổi màu và hành vi bơi lội đẹp của cá đực. Chế độ sinh sản thường là một vợ một chồng.
Trứng cá ngựa mỏ dài có hình bầu dục hoặc hình quả lê, có màu cam, đường kính khoảng 1.2 mm. Cá đực sẽ ấp trứng trong túi ấp cho đến khi chúng hoàn toàn nở, sau khoảng 14 ngày. Cá con mới nở trông giống như cá trưởng thành, với chiều cao khoảng 5.14 mm. Một con cá ngựa mỏ dài đực có thể mang theo nhiều tới 1000 con cá con. Tuổi thọ ước tính khoảng 2.5 năm.
Một bể cá 150 lít có thể nuôi 1 cặp cá ngựa mỏ dài, nếu có bể lớn có thể nuôi nhiều con. Chúng cũng có thể được nuôi chung với các loài cá hiền lành như cá bống, cá hề. Bể cá cần có các vật thể dạng nhánh để cá ngựa mỏ dài có thể quấn vào. Thức ăn là các động vật giáp xác nhỏ, tôm và các loại mồi động vật khác. Cá ngựa mỏ dài có thể sinh sản trong bể cá.
Tại cửa sông Brazil, mật độ trung bình của cá ngựa mỏ dài là 0.026 mẫu/ mét vuông, từ năm 2002 đến 2006, mật độ trung bình tại các điểm lấy mẫu là 0.0023-0.066 mẫu/mét vuông. Mật độ phát hiện ở những khu vực có ghi chép thương mại (trung bình 0.013 mẫu/ mét vuông) thấp hơn so với những khu vực không có ghi chép thương mại (trung bình 0.04 mẫu/ mét vuông). Tại bờ biển đá của bang Rio de Janeiro, mật độ trung bình có thể thay đổi từ 0.001-0.04 mẫu/ mét vuông. Tại Cuba, từ năm 2004 đến 2005, mật độ trung bình của cá ngựa mỏ dài vào khoảng 0.0037-0.01 mẫu/mét vuông.
Dựa trên dữ liệu khảo sát từ ngư dân và thông tin từ các cơ quan chính phủ Colombia, Venezuela và Brazil, có thể suy luận rằng số lượng cá ngựa mỏ dài đã giảm hơn 30% trong phần lớn khu vực phân bố và còn tiếp tục giảm. Số lượng trong vùng Vịnh Mexico và nước Mỹ dường như ổn định. Tổng thể, cá ngựa mỏ dài đã trải qua sự suy giảm gần 30% số lượng và vẫn đang tiếp tục giảm.
Do sự phát triển ven biển, mất mát và suy thoái của một số môi trường sống ưa thích, đặc biệt là rừng ngập mặn, đã trở thành mối đe dọa cho chúng. Chúng bị bắt làm sản phẩm phụ trong nghề cá và bị đánh bắt cho mục đích thủy cung, các nguyên nhân nhân tạo này gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đến số lượng của chúng.
Được đưa vào danh sách đỏ của các loài nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN, 2016) – Gần nguy cấp (NT).
Năm 2004, được đưa vào Công ước về Buôn bán Quốc tế các Loài động thực vật Hoang dã Nguy cấp (CITES) – Phụ lục II.
Bảo vệ động vật hoang dã, không tiêu thụ động vật hoang dã.
Bảo vệ cân bằng sinh thái, là trách nhiệm của mọi người!
Phạm vi phân bố
Cá ngựa mỏ dài phân bố ở vùng nước ven biển phía tây Đại Tây Dương; khu vực phân bố từ Bắc Carolina đến khu vực phía nam Mỹ, đi qua Vịnh Mexico và Biển Caribbean, kéo dài dọc theo Nam Mỹ đến vùng phía nam Brazil. Thế giới phân bố ở Bahamas, Barbados, Belize, Bermuda, Brazil, Quần đảo Cayman, Colombia, Costa Rica, Cuba, Dominica, Grenada, Guadeloupe, Haiti, Honduras, Jamaica, Mexico (bang Yucatán, bang Veracruz), Panama, Puerto Rico, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines, Suriname, Trinidad và Tobago, Quần đảo Turks và Caicos, Mỹ (bang Florida, Bắc Carolina), Venezuela, Quần đảo Virgin thuộc Anh và Quần đảo Virgin thuộc Mỹ. Cá ngựa mỏ dài thường sống ở các rạn san hô, rừng ngập mặn và khu vực có tảo phát triển mạnh ở độ sâu từ 2 đến 50 mét. Tại cửa sông Brazil, chúng thường xuất hiện ở nơi có độ sâu trung bình dưới 0.4 mét. Tại bờ biển đá ở Rio de Janeiro, thường xuất hiện ở độ sâu trung bình 4.97 mét.
Tập tính hình thái
Cá ngựa mỏ dài có kích thước lớn nhất là 17.5 cm (từ đỉnh mai đến đầu đuôi duỗi ra). Thân bên phẳng, đoạn thân có hình bảy cạnh, đuôi có hình bốn cạnh. Ngoại trừ gai mắt ra thì không có gai nào. Vương miện đầu thấp, mỏ dài có hình ống. Đuôi dài và cong. Mặt bụng đuôi của cá đực có túi ấp. Cá ngựa mỏ dài thường có màu cam sáng đối với cá đực, trong khi cá cái có màu vàng nhạt với các đốm nâu hoặc trắng rải rác. Màu sắc cơ thể cũng thay đổi tùy theo môi trường xung quanh, thường có màu hồng hoặc trắng khi đang tán tỉnh.