Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Gõ kiến mỏ đỏ Tên khác: Melanerpes rubricapillus, Gõ kiếng mỏ đỏ Ngành: Chim Họ: Chim gõ kiến Chi: Melanerpes
Dữ liệu hình thể
Chiều dài: Khoảng 22 cm Cân nặng: Chưa có tài liệu xác minh Tuổi thọ: Chưa có tài liệu xác minh
Đặc điểm nổi bật
Giới thiệu chi tiết
Gõ kiếng mỏ đỏ có tên khoa học là Melanerpes rubricapillus, có 4 phân loài.
Gõ kiếng mỏ đỏ là một loài chim rất chăm chỉ, thường xuyên di chuyển lên xuống trên thân cây, thay đổi thường xuyên giữa các nhánh cây, thể hiện sự ưa thích sống trên những cây lớn. Nó sử dụng mỏ giống như búa để bẩy vỏ cây, tìm kiếm côn trùng bên dưới, đôi khi cũng xuống mặt đất trong rừng, chú ý đến dấu vết của côn trùng nằm trên những mảnh vỏ cây rơi.
Cuộc sống của gõ kiếng mỏ đỏ rất khác biệt so với các loài gõ kiến Bắc Mỹ khác, điểm độc đáo của chúng là loài chim sống theo bầy, thường sống từ 2 đến 5 cá thể. Mỗi nhóm gia đình thường cư trú trong các lỗ cây của cây thông cổ thụ, những cây có tuổi đời thường trên 100 năm. Mỗi năm, từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 6, chim cái đẻ trứng trong lỗ cây, mỗi lứa từ 2 trứng, tất cả thành viên trong gia đình đều giúp tìm côn trùng để nuôi dưỡng chim non.
Được liệt vào Danh sách đỏ các loài có nguy cơ tuyệt chủng của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) năm 2013 – thuộc nhóm ít quan tâm (LC).
Bảo vệ động vật hoang dã, tuyệt đối không thưởng thức thịt động vật hoang dã.
Bảo vệ sự cân bằng sinh thái, mỗi người đều có trách nhiệm!
Phạm vi phân bố
Gõ kiếng mỏ đỏ phân bố tại Colombia, Costa Rica, Guyana, Panama, Suriname, Trinidad và Tobago, Cộng hòa Venezuela. Ở Mỹ có tại Bắc và Nam Carolina và Florida. Gõ kiếng mỏ đỏ sinh sống ở khu vực dưới 1500 mét so với mực nước biển, chủ yếu trong rừng thông, cũng xuất hiện ở vùng rừng và rừng thưa.
Tập tính và hình thái
Gõ kiếng mỏ đỏ có chiều dài khoảng 22 cm, mỏ cứng và thẳng, hình mũi nhọn, đầu mỏ có đầu nhọn giống như búa, lỗ mũi để trần; xương lưỡi kéo dài tạo thành hình vành; lưỡi dài và có thể kéo dài, đầu lưỡi có những chiếc móc ngắn; chân hơi ngắn, có 4 mặt; có 9 lông cánh chính. Xương đầu dạng hình lưỡng tính, xương chéo được thay thế bằng một số mảnh xương đôi, xương hàm mỏng nhỏ và xa hai bên, xương ức có 2 vết cắt ở mỗi bên phía sau, xương ức phân nhánh. Các cơ chân thiếu cơ không có chân và cơ phụ; đuôi hình mũi nhọn, có khoảng 12 chiếc lông đuôi, lông cứng và đàn hồi, hỗ trợ cơ thể khi đập mỏ. Đầu đen tạo sự tương phản rõ rệt với má màu trắng, lưng và cánh màu đen với nhiều đốm trắng nhạt. Phần dưới thường có màu trắng ngà. Chỉ có chim trống gõ kiếng mới có một chùm lông đỏ rất nhỏ ở phía sau đầu, chùm lông này rất hiếm khi thấy, được cho là giống như một chiếc nơ trên mũ (phần ruy băng trên mũ đội).