Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Dê Jentink
Tên khác: Dê Jentink, Dê đầu dài
Ngành: Động vật có vú
Họ: Động vật móng guốc
Giới: Móng guốc đơn guốc
Dữ liệu sinh lý
Chiều dài cơ thể: Khoảng 135 cm
Khối lượng: 57-80 kg
Tuổi thọ: Khoảng 21 năm
Đặc điểm nổi bật
Là một trong những loài dê Jentink có kích thước lớn nhất, màu sắc bề ngoài rất giống với loài lợn vòi châu Á.
Giới thiệu chi tiết
Dê Jentink (tên khoa học: Cephalophus jentinki) là một loài có tên tiếng Anh là Jentink’s duiker, tiếng Pháp là Céphalophe de Jentink, tiếng Tây Ban Nha là Duiquero de Jentink, và tiếng Đức là Jentinkducker. Hiện tại không có phân loài.
Dê Jentink được phát hiện vào năm 1884, nhưng mãi đến năm 1892 mới có mô tả chính thức. Sau đó, loài này không được phát hiện lại cho đến năm 1948 khi một bộ sọ được phát hiện ở Liberia. Kể từ thập niên 1960, đã có nhiều báo cáo quan sát loài này. Năm 1971, loài này đã được nuôi thành công tại sở thú Gladys Porter.
Dê Jentink có sự tương đồng với Dê lưng vàng, đây là loài duy nhất ở Tây Phi có kích thước tương tự. Mặc dù bộ lông màu đen và xám của dê Jentink trưởng thành dễ phân biệt, nhưng những con non của cả hai loài lại rất giống nhau. Màu sắc bề ngoài của lợn vòi châu Á lại rất giống với dê Jentink, nhưng lợn vòi sở hữu cái mũi dài, chân màu đen và kích thước lớn hơn, do đó dễ dàng để phân biệt với dê Jentink.
Dê Jentink sống đơn độc, chủ yếu hoạt động vào ban đêm, nhưng cá thể đôi khi cũng xuất hiện vào ban ngày. Thông thường, chúng sẽ ẩn mình trong rừng vào ban ngày, nghỉ ngơi hoặc ngủ ở những nơi có chỗ che chắn, như thân cây hoặc bên hông của các cây lớn. Khi gặp nguy hiểm, chúng có thể chạy rất nhanh và trốn vào nơi kín, nhưng loài này lại có sức bền kém, thông thường không chạy được xa. Giống như hầu hết các loài dê, dê Jentink được cho là sống trong vùng lãnh thổ gia đình ổn định, nhưng vẫn chưa rõ loài này có tính lãnh thổ hay không.
Là loài động vật ăn thực vật. Chúng chủ yếu ăn trái cây, cũng như các loại hạt, hoa, lá, cành, rễ, và có thể ăn cả quả ca cao, xoài và trái cọ trong các rừng trồng.
Thời gian mang thai của dê Jentink khoảng 8 tháng. Mỗi lứa chỉ sinh một con, thời gian cai sữa chưa được biết, ước khoảng 3-4 tháng. Tuổi thọ có thể lên đến 21 năm. Về chế độ sinh sản của loài này, hiểu biết vẫn còn hạn chế. Khi sinh ra, bộ lông của dê con có màu nâu đậm, phải đến một tuổi mới có màu đen và xám của dê trưởng thành.
Trong toàn bộ khu vực phân bố, dê Jentink rất hiếm hoặc quý hiếm. East (1999) ước tính mật độ trung bình khoảng 0.1 con trên mỗi km², với tổng số ước tính khoảng 3500 con; tuy nhiên, đến năm 2001, Wilson cho rằng chỉ còn hơn 2000 con. Nguyên nhân chính cho sự suy giảm tổng số cá thể của loài này chủ yếu là do phá hoại rừng quy mô lớn, chẳng hạn như khai thác gỗ và mở rộng canh tác nông nghiệp, dẫn đến mất habitat. Đánh bắt cũng ảnh hưởng lớn đến loài này, việc săn bắn thịt trong rừng phổ biến ở toàn bộ Tây Phi, đặc biệt là phương pháp săn bắn bằng bẫy dây điện đang gia tăng. Một số dê Jentink sống ở khu vực có áp lực săn bắt thấp và được bảo vệ hiệu quả, như Vườn quốc gia Sapo, Vườn quốc gia Gola và phần tây Vườn quốc gia Taï (2013), khiến cho dê Jentink trở thành mục tiêu của những kẻ săn trộm.
Cần được bảo vệ nhằm ngăn chặn việc buôn bán động vật hoang dã.
Bảo tồn cân bằng sinh thái là trách nhiệm của tất cả chúng ta!
Phạm vi phân bố
Phạm vi phân bố chỉ giới hạn ở phía tây rừng Guinea, từ Sierra Leone đến Liberia, rồi đến phía tây Bờ Biển Ngà và phía đông nam Guinea, dọc theo sông Niouniourou. Chúng phân bố ở phía đông Liberia, dọc theo các sông Sienkahn, Sino và các đồn điền cọ Betu. Chúng cũng xuất hiện trong rừng quốc gia Grebo và rừng quốc gia Krahn-Bassa. Ở Bờ Biển Ngà, sống trong Vườn quốc gia Taï, cạnh đảo Dodo, Rapid Grah, Cavally-Gouin và khu rừng phân loại Scio. Phạm vi phân bố ở Guinea chỉ hạn chế ở phía đông nam, có ghi nhận trong khu bảo tồn sinh quyển Ziama, rừng Dick và khu bảo tồn tự nhiên Sinnimba. Chúng sống trong các lớp rừng mưa nhiệt đới ở Tây Phi, chủ yếu trong rừng nguyên sinh nhưng cũng có thể vào khu rừng thứ sinh, rừng trồng và đất nông nghiệp gần đó. Độ cao từ mặt biển đến 1200 mét. Yêu cầu cơ bản của loài này dường như là sự đa dạng của cây ăn quả và sự che bóng dày đặc của rừng, thay vì một loại rừng cụ thể.
Hình thái hành vi
Dê Jentink có chiều dài đầu – thân khoảng 135 cm, chiều cao vai 80 cm, chiều dài đuôi 15 cm; trọng lượng từ 57 đến 80 kilogram. Màu sắc bộ lông của loài này khác với các loài khác cùng chi: đầu và cổ màu đen có ánh bóng, bộ lông cơ thể màu xám trắng. Một dải trắng mảnh quấn quanh vai và dưới ngực, ngăn cách từ chi trước màu đen và cơ thể màu xám; màu chân cũng tương tự như vậy. Môi có màu nhạt, nhưng đặc điểm chính của khuôn mặt là có một tuyến ở khe hẹp trước mỗi mắt. Không có lông trên trán. Cả đực và cái đều có sừng nhọn chắc chắn, ở những cá thể trưởng thành, sừng dài từ 14-21 cm, nghiêng từ trán ra sau.