Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Trung: Tiến gõ kiến Đài Loan
Tên khác: Ngũ sắc điểu, Hoa hòa thượng, Psilopogon nuchalis, Megalaima nuchalis, Taiwan Barbet
Ngành: Động vật có vú
Họ: Chim tức phương
Dữ liệu thể chất
Chiều dài: Khoảng 20 cm
Cân nặng: 51-64 g
Tuổi thọ: Chưa có thông tin xác thực
Đặc điểm nổi bật
Ngoài đầu và cổ có màu vàng, đỏ, xanh, đen, toàn thân là màu xanh ngọc, do đó còn được gọi là ngũ sắc điểu.
Giới thiệu chi tiết
Tiến gõ kiến Đài Loan có tên khoa học là Psilopogon nuchalis, Megalaima nuchalis, tên tiếng Anh là Taiwan Barbet, là loài đặc hữu ở Đài Loan. Trước đây, loài này được coi là một trong năm phân loài của Tiến gõ kiến mày đen (Megalaima oorti). Sau khi phân tích di truyền học bằng công nghệ sinh học phân tử, Feinstein và cộng sự (2008) xác định rằng đây là loài đặc hữu ở Đài Loan và khôi phục tên loài ban đầu của Gould (1863).
Tiến gõ kiến Đài Loan là loài chim định cư, không thể bay lâu, khoảng cách bay cũng không xa, thường hoạt động đơn độc hoặc theo đàn trên cây. Chúng ăn trái cây dại, trái cây và một lượng nhỏ côn trùng. Ngũ sắc điểu là loài ăn tạp và chủ yếu ăn trái cây, đồng thời là loài kiếm ăn cơ hội. Tỷ lệ ăn của ngũ sắc điểu cao hơn ở những loài có mật độ cây rừng lớn hơn hoặc sinh khối quả nhiều hơn, trong đó ảnh hưởng của mật độ cây rừng là khá lớn. Ngoài ra, ngũ sắc điểu còn có sở thích khác nhau đối với các loại quả khác nhau, trong 15 loài có tần suất ăn cao nhất thì trái việt quất Gheng Feng được ưa thích nhất.
Tiến gõ kiến Đài Loan phát ra khoảng bốn loại tiếng kêu khác nhau với các âm thanh đơn giản như “kè, kè, kè”, với sự thay đổi về nhịp điệu và độ cao. Tiếng kêu đầu tiên vào buổi sáng thay đổi theo thời gian mặt trời mọc. Ngoài ra, khi bị giật mình hoặc có dấu hiệu cảnh giác, chúng sẽ phát ra tiếng “gù gù” liên tục.
Mùa sinh sản của tiến gõ kiến Đài Loan kéo dài từ tháng 3 đến tháng 8, trong đó tháng 6 và 7 là cao điểm. Chúng tự khoan lỗ trên cây, trong đó có tỷ lệ khá cao cây chết. Số lượng tổ trên mỗi cây có thể lên đến 11 tổ. Ở núi Dương Minh, mật độ tổ từ 0.25 đến 1.6 tổ mỗi hecta, trong khu vực 8.2 hecta của Vườn thực vật Đài Bắc có 12 cây có tổ. Nhiệm vụ khoan lỗ dường như hoàn toàn do chim đực đảm nhiệm. Độ cao của tổ từ mặt đất là từ 2 đến 13 mét, trung bình là 5.82 mét. Một cặp chim trưởng thành có thể khoan nhiều lỗ trong một mùa, nhưng không phải lỗ nào cũng được sử dụng. Đường kính thân cây tại vị trí tổ từ 10 đến 37 cm, hình dạng tổ là túi, độ sâu túi từ 22 đến 42 cm, độ sâu ngang của lỗ từ 9 đến 13 cm.
Mỗi tổ thường đẻ từ 3 đến 4 quả trứng, trứng có hình dạng hơi bầu dục, màu trắng không có đốm. Chim đực và chim cái luân phiên ấp trứng. Tại Vườn thực vật Đài Bắc, trung bình chỉ có 58.2% thời gian trong ngày là có bố mẹ ấp trứng, chim đực ấp trứng nhiều hơn chim cái, nhưng chim cái sẽ ở lại tổ qua đêm. Tỷ lệ nở trứng tại Vườn thực vật Đài Bắc là 53.5%, chim non nở sau 13 đến 15 ngày. Sau khi chim non nở, cả chim bố và mẹ cùng chăm sóc, chim non cần khoảng 23 đến 29 ngày để rời tổ. Tỷ lệ thoát tổ của chim non tại Vườn thực vật Đài Bắc là 52.2%, mỗi mùa sinh sản trung bình mỗi cặp đẻ được 1.6 lứa.
Tổng thể số lượng tiến gõ kiến Đài Loan chưa được xác định, nhưng được mô tả là loài phổ biến (del Hoyo et al. 2002). Loài này có khoảng 10,000 đến 100,000 cặp sinh sản tại Đài Loan (Brazil 2009).
Được liệt vào danh sách Đỏ các loài nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN Red List): Loài không nguy cấp (LC), đánh giá năm 2012.
Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn săn bắn.
Bảo vệ cân bằng sinh thái, là trách nhiệm của mọi người!
Phân bố
Tiến gõ kiến Đài Loan chỉ có mặt tại Đài Loan, Trung Quốc. Loài này thích hoạt động trong rừng lá rộng từ thấp đến trung bình, hoặc trong công viên nơi có tán lá dày, cũng có thể dễ dàng thấy trong những khu vực vườn có ít cây cối.
Tính cách và hình thái
Hình dáng của chim đực và chim cái tiến gõ kiến Đài Loan giống nhau. Mắt sáng mã vàng, ức đỏ, trên mắt có viền mày đen, mỏ dày màu đen. Đỉnh đầu chuyển từ màu vàng sang màu xanh da trời, lông tai và phía trên cổ có màu xanh da trời, phần sau cổ có mảng đỏ, hai bên cổ và lưng có màu xanh ngọc, đuôi màu xanh nhạt, trừ lông đuôi giữa màu nâu đen, các lông bên có màu nâu sẫm. Cằm và phần trên cổ có màu vàng, phần trên ngực có đốm đỏ, dưới ngực có màu vàng xanh. Chân và móng màu xám chì. Kích thước: cân nặng chim đực 59-64 g, chim cái 51-64 g; chiều dài mỏ chim đực 24-25 mm, chim cái 22-26 mm; chiều dài cánh chim đực 97-101 mm, chim cái 90-98 mm; chiều dài đuôi chim đực 60-74 mm, chim cái 62-65 mm; chiều dài chân chim đực 28 mm, chim cái 26-33 mm. (Chú thích: ♀ chim cái; ♂ chim đực)