Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Trung: Trung bạch lộc
Tên khác: Xuân xích
Ngành: Chim lội
Họ: Bạch lộc
Thông số cơ thể
Chiều dài: 560~720 mm
Cân nặng: 3-4 kg
Tuổi thọ: 7 đến 10 năm
Đặc điểm nổi bật
Trung bạch lộc là loài chim lội cỡ trung, nổi bật với kích thước, hình dáng và hành vi. Trung bạch lộc có kích cỡ tương đối lớn, mỏ dày và ngắn, khe mỏ không vượt quá mắt, chân và móng đều có màu đen, khi bay cổ và cổ ngực co lại thành hình chữ S. Về hình dáng, mỏ và chân của trung bạch lộc luôn có màu đen, móng có màu xanh vàng.
Giới thiệu chi tiết
Trung bạch lộc (tên khoa học: Ardea intermedia) thuộc họ bạch lộc, có tên thông dụng là xuân xích. Đây là loài chim lội cỡ lớn. Kích thước trung bình, chiều dài từ 560 đến 720 mm, có đực cái giống nhau; võng mạc màu vàng, khe mỏ không vượt quá mắt, đây là một trong những đặc điểm nhận diện rõ ràng so với bạch lộc lớn; chân màu đen, toàn thân màu trắng, cổ có hình chữ “S”; lông mùa hè ở lưng và ngực có sợi lông mịn dài, mỏ có màu đen, có lúc có màu hồng, da mặt màu xám; lông mùa đông có mỏ màu vàng, đầu mỏ màu đen, lông trang trí đã rụng.
Trung bạch lộc phân bố ở các tỉnh Liêu Ninh, Hà Bắc, Bắc Kinh, Sơn Đông, phía nam Hà Nam, Thiểm Tây, Cam Túc, Tây Tạng, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu và nhiều nơi khác tại Trung Quốc. Chúng sinh sống và hoạt động ở khu vực nước nông của các vùng đất ẩm như sông, hồ; thường hoạt động đơn lẻ hoặc trong các nhóm nhỏ; thức ăn chủ yếu là côn trùng, động vật giáp xác, động vật thân mềm, cá, ếch và thằn lằn. Thời gian sinh sản của trung bạch lộc từ tháng 4 đến tháng 6, chúng xây tổ hình đĩa trên cây, bụi rậm hoặc mặt đất bằng cành khô và cỏ khô; mỗi năm đẻ một ổ, mỗi ổ từ 3 đến 5 trứng, thời gian ấp khoảng 26 đến 29 ngày.
Trung bạch lộc có giá trị thẩm mỹ cao. Đây là loài động vật hoang dã có giá trị sinh thái, khoa học và xã hội quan trọng được bảo vệ bởi Nhà nước Trung Quốc, cũng là loài động vật hoang dã được bảo vệ trọng điểm ở vùng Sơn Đông.
Trung bạch lộc là loài chim lội cỡ trung, kích thước lớn giữa bạch lộc lớn và bạch lộc, có kích thước lớn hơn một chút so với bạch lộc. Mỏ và cổ của chúng ngắn hơn so với bạch lộc, mỏ dài và sắc nhọn, cánh lớn và dài, chân và móng đều dài, phần trên cổ chân trần, chân có ba móng ở phía trước và một ở phía sau, có răng cưa trên móng chân giữa. Đực và cái có màu sắc giống nhau. Hình dạng cơ thể có dạng hình thoi, lông mềm mại với những sợi lông lộn xộn, ngực có lông trang trí, phía trên đầu có thể có lông mào, chân được bao phủ bởi lông.
Toàn thân có màu trắng; mùa hè có một hàng lông trang trí dài ở lưng, vượt qua đầu đuôi, phía sau đầu có một ít lông mào không rõ rệt, ngực cũng có một cụm lông dài lộn xộn. Mùa đông không có lông trang trí và lông mào, mỏ màu vàng, đầu mỏ màu đen, chân và móng có màu đen.
Võng mạc màu vàng; mỏ màu đen; da mặt trần màu vàng lục; chân và móng màu đen; vào mùa đông mỏ màu vàng; đầu mỏ màu đen; chân và móng màu đen.
Kích thước: chiều dài cơ thể từ 620 đến 700 mm, chiều dài mỏ từ 68 đến 75 mm, chiều dài cánh từ 383 đến 800 mm, chiều dài đuôi từ 113 đến 128 mm, chiều dài chân từ 110 đến 116 mm.
Chúng sinh sống và hoạt động ở vùng nước nông ven sông, hồ, đầm lầy, cửa sông, bờ biển và bờ ao, cũng thường xuất hiện ở các vùng ngập nước và ruộng lúa. Chúng chủ yếu được tìm thấy trong các khu vực nội địa nước ngọt có thảm thực vật phong phú, những vùng đầm lầy hay lụt theo mùa, đồng tam giác nội địa, ao, rừng đầm lầy, đầm lầy nước ngọt, kênh rạch nhỏ, đồng cỏ ẩm, gần các vùng chăn thả ngập nước.
Loài này ít xuất hiện ở các môi trường sống ven biển, nhưng đôi khi có thể xuất hiện ở các bãi bùn, cửa sông có thuỷ triều, lagune ven biển, bãi muối, dòng chảy thuỷ triều và thường cư trú trong rừng ngập mặn.
Di cư: Bắt đầu di cư từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 4 đến phía nam Trung Quốc để sinh sản, bắt đầu di chuyển ra vào cuối tháng 9 và đầu tháng 10, cũng có một phần di cư vào mùa đông ở Vân Nam, Quảng Đông, đảo Hải Nam và Đài Loan.
Tập tính: Thường hoạt động đơn lẻ hoặc theo cặp hoặc trong các nhóm nhỏ, đôi khi cũng hòa trộn với các loại bạch lộc khác, hoặc cư trú cùng với chim hải âu đuôi đen. Chúng rất cảnh giác, thấy người từ xa đã bay đi, khó tiếp cận. Khi bay cổ co lại thành hình chữ S, hai chân duỗi thẳng về phía sau, vượt qua đuôi, cánh đập một cách chậm rãi, bay một cách thanh thoát, theo đường thẳng. Chúng hoạt động vào ban ngày hoặc chiều tối.
Thức ăn: Chế độ ăn chủ yếu là sinh vật nước, chủ yếu là cá, tôm, ếch, châu chấu, côn trùng và các loài động vật giáp xác khác cũng như các động vật không xương sống nhỏ hoặc rắn nhỏ, thằn lằn. Chúng nhẹ nhàng lướt qua nước ở vùng nước nông hoặc đứng yên trong nước nông hoặc bên bờ chờ đợi con mồi đến gần, rồi bất ngờ bắt được con mồi bằng những động tác nhanh chóng và chính xác. Sau khi ăn no, chúng thường nghỉ ngơi với cổ co lại, đứng trên một chân bên bờ hoặc trên bờ ruộng.
Phân bố toàn cầu: Phân bố ở Bangladesh, Bhutan, Brunei, Campuchia, Trung Quốc, Guam, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc, Lào, Malaysia, Micronesia, Myanmar, Nepal, Quần đảo Bắc Mariana, Oman, Pakistan, Palau, Papua New Guinea, Philippines, Liên bang Nga, Singapore, Sri Lanka, Thái Lan, Đông Timor, Việt Nam.
Chim di trú: Đảo Giáng Sinh, Maldives, Seychelles, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Hoa Kỳ, Yemen.
Trung Quốc: Cam Túc, Sơn Đông, Hà Nam, Giang Tô, Thượng Hải, Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Quý Châu, Phúc Kiến là nơi trú đông; Vân Nam là nơi sinh sống; Quảng Đông, Hải Nam, Đài Loan là nơi trú đông.
Thời gian sinh sản thay đổi khá lớn tùy theo khu vực. Ở Trung Quốc, thường vào tháng 4-6; làm tổ trong rừng hoặc rừng tre. Thường làm tổ theo đàn hoặc cùng với các loại bạch lộc khác. Xây tổ trên cây, trong bụi rậm hoặc trên mặt đất bằng cành cây, tổ có hình đĩa, cấu trúc đơn giản, thường được tạo thành từ cành khô và cỏ khô, bên trong tổ có chứa cỏ khô mềm. Mỗi tổ đẻ từ 3 đến 6 trứng, trứng có màu xanh, trắng hoặc vàng da, không có đốm. Cả đực và cái cùng ấp trứng. Các con non thuộc tính trễ.
Theo 12 tổ đo được, đường kính tổ là 33.75 cm × 18.25 cm, tổ làm trong bụi rậm cách mặt đất 35.45 (20-50) cm. Mỗi tổ đẻ từ 2 đến 4 trứng, phần lớn là 4 trứng. Trứng có màu xanh lục, kích thước 47.55 mm × 32.25 mm, trọng lượng trứng 27.43 (25.7-29.4) gram; thời gian ấp trứng 26 (26-29) ngày, tỷ lệ nở từ 59.1% đến 77.3%.
Phạm vi phân bố
Thích nghi với môi trường nước ngọt hoặc nước lợ có độ che phủ thực vật nhất định, như cánh đồng, đầm lầy, ao,… thỉnh thoảng thấy ở vùng cỏ khô hơn, đôi khi cũng thấy ở vùng bờ cát ven biển và rừng ngập mặn. Thức ăn chủ yếu là cá, cũng ăn động vật lưỡng cư, động vật giáp xác và các loài khác.
Hình thái và tập tính
Kích thước thân giữa bạch lộc và bạch lộc lớn, toàn thân màu trắng, da mặt màu vàng, trong mùa sinh sản cổ và lưng có lông trang trí, bên ngoài không có lông trang trí, khe mỏ không vượt quá mắt. Võng mạc màu vàng, mỏ màu đen trong mùa sinh sản, màu vàng ngoài mùa sinh sản, đầu mỏ có màu đen, chân màu đen.