Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Gõ kiến đầu xám Tên khoa học: Picus canus Hàng: Chim gõ kiến Bộ: Piciformes Họ: Picidae Chi: Picus
Dữ liệu về đặc điểm
Chiều dài cơ thể: 26.5-32.1 cm Cân nặng: 105-159g Tuổi thọ: Chưa có dữ liệu xác định
Đặc điểm nổi bật
Giới thiệu chi tiết
Gõ kiến đầu xám có tên khoa học là Picus canus, có tên tiếng Anh là Grey-faced Woodpecker hoặc Grey-headed Woodpecker, có 11 phân loài.
Gõ kiến đầu xám thường hoạt động đơn độc hoặc theo cặp, rất ít khi tập trung thành đàn. Chúng bay nhanh và di chuyển theo hình sóng. Chúng thường kiếm ăn ở phần giữa và dưới của thân cây, cũng như thường kiếm ăn trên mặt đất, đặc biệt là ở những khúc gỗ bị đổ hoặc nơi có kiến. Hầu như không phát ra tiếng kêu, âm thanh đơn giản, chỉ phát ra âm “ga-ga-“. Tuy nhiên, trong thời kỳ sinh sản, tiếng kêu rất nhiều và vang to, tần số cũng dài và đa dạng, giống như “gao-gao-gao-“.
Gõ kiến đầu xám chủ yếu ăn kiến, sâu bướm, ấu trùng côn trùng, và nhiều loại côn trùng khác như cánh cứng, cánh màng. Khi kiếm ăn, chúng thường leo lên xoắn ốc từ gốc cây, khi tới ngọn cây sẽ bay đến gốc cây khác để tìm kiếm, có khả năng lấy côn trùng ẩn náu dưới vỏ cây hoặc trong thân cây bằng lưỡi dài và dính. Thỉnh thoảng chúng cũng ăn trái cây và hạt như nho dại, hạt thông đỏ, hạt bàng và hạt cỏ.
Thời gian sinh sản của gõ kiến đầu xám là từ tháng 4 đến tháng 6. Vào đầu tháng 4, các cặp đã bắt đầu hoạt động cùng nhau, tiếng kêu tăng lên, và chúng đuổi nhau, phát ra âm thanh “ga-ga”. Chúng làm tổ trong các hốc cây, hốc được hình thành bởi cả cha và mẹ, mỗi năm đều khoét hốc mới, thường không sử dụng tổ cũ. Hốc tổ thường được chọn ở các cây gỗ mục trong rừng hỗn giao, rừng lá rộng hoặc ở rìa rừng với các loại cây như Tần bì, Dương, Thạch lựu, Sồi, và Dẻ. Hốc tổ cao từ 2.7 đến 11 mét so với mặt đất, miệng hốc hình tròn hoặc bầu dục, đường kính 5-6 cm, đường kính bên trong 13-15 cm, và độ sâu 27-42 cm. Bên trong hốc không có vật liệu lót. Mỗi năm, chúng đẻ 1 lứa, bắt đầu đẻ trứng vào đầu tháng 5. Mỗi lứa có từ 8 đến 11 trứng, thường là 9-10 trứng. Trứng có màu trắng sữa, nhẵn bóng, không có đốm, hình oval, kích thước từ 28.5 đến 30.7 mm x 21-22.9 mm, trung bình 29.5 mm x 21.6 mm, nặng 6.5g. Chúng chỉ bắt đầu ấp trứng khi đã đẻ đủ số trứng, và cả cha và mẹ cùng nhau thực hiện việc ấp trứng, thời gian ấp từ 12 đến 13 ngày. Chim non phát triển chậm, cả cha mẹ đều nuôi. Giai đoạn đầu ấm cho chim non nhiều hơn, số lần cho ăn ít, và thường vào hốc cho chim non. Ở giai đoạn sau, không ấm cho chim non nữa, số lần cho ăn tăng lên, cả hai đứng ở miệng hốc và đưa đầu vào cho con. Sau 23-24 ngày được cho ăn, chim non có thể bay và rời tổ.
Được xếp vào danh sách đỏ các loài nguy cấp của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) năm 2012 – Không có nguy cơ (LC).
Bảo vệ động vật hoang dã, không ăn thịt hoang dã.
Giữ gìn sự cân bằng sinh thái, mỗi người đều có trách nhiệm!
Phạm vi phân bố
Gõ kiến đầu xám phân bố tại Albania, Áo, Bangladesh, Belarus, Bỉ, Bhutan, Bosnia và Herzegovina, Bulgaria, Campuchia, Trung Quốc, Croatia, Cộng hòa Séc, Estonia, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungary, Ấn Độ, Indonesia, Ý, Nhật Bản, Kazakhstan, Hàn Quốc, CHDCND Triều Tiên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Lào, Latvia, Liechtenstein, Lithuania, Luxembourg, Bắc Macedonia, Malaysia, Moldova, Mông Cổ, Montenegro, Myanmar, Nepal, Hà Lan, Na Uy, Pakistan, Ba Lan, Romania, Liên bang Nga, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraina và Việt Nam. Gõ kiến đầu xám chủ yếu sống ở rừng lá rộng và rừng hỗn giao ở các vùng đồi, cũng xuất hiện ở rừng tái sinh và các khu vực ven rừng, rất ít khi vào rừng nguyên sinh thông. Vào mùa thu và mùa đông, chúng thường xuất hiện bên đường, ven ruộng và trong các khu rừng thưa gần làng.
Tập quán và hình dạng
Gõ kiến đầu xám có bộ lông trên trán màu xám nhạt xen kẽ với màu đen, trên trán và đỉnh đầu có màu đỏ, phần sau đầu, gáy và cổ sau màu xám hoặc xám tối, xen lẫn các vân lông đen. Phần trước mắt màu đen, lông mày màu xám trắng, lông tai và hai bên cổ màu xám, còn mảng lông gò má màu đen có độ rộng và rõ ràng. Lưng và cánh có lông màu xanh ô liu, lông đuôi có màu vàng lục. Lông đuôi giữa màu nâu ô liu, hai lông đuôi bên có đốm hình bán nguyệt màu xám trắng, đầu lông đuôi có màu đen, gốc lông đuôi có màu đen bóng. Lông cánh chính màu đen, lông bên ngoài có đốm màu trắng hình vuông, còn lông ở gốc bên trong cũng có đốm trắng. Lông cánh phụ bên ngoài có màu ô liu vàng, còn đốm trắng không rõ. Phần dưới của cơ thể từ cằm, họng đến cổ trước màu xám trắng, còn ngực, bụng và 2 bên hông màu xám xanh. Lông đuôi dưới cũng có màu xám xanh, đầu lông màu xanh cỏ. Con mái có màu tối hơn từ trán đến đỉnh đầu, có các đường sọc và đốm màu đen, phần còn lại giống như con đực. Chim đực non có mỏ màu nâu xám ở gốc, trán màu đỏ với đốm gần tròn và có viền màu cam. Đỉnh đầu màu xanh xám với các chấm sọc nhạt màu đen, phần bên của đầu đến cổ sau màu xám tối. Hai bên hông, bụng dưới và lông đuôi có màu trắng xám, xen lẫn các đốm đen nhạt và sọc ngang. Phần còn lại giống như chim trưởng thành. Mắt màu đỏ, mỏ màu xám đen, chân và móng màu xanh lục hoặc xanh nâu. Kích thước: Cân nặng của chim đực từ 120-159g, chim mái từ 105-150g; chiều dài cơ thể của chim đực từ 265-311mm, chim mái từ 273-321mm; chiều dài mỏ chim đực từ 29-40mm, chim mái từ 31-40mm; chiều dài cánh chim đực từ 133-150mm, chim mái từ 138-153mm; chiều dài đuôi chim đực từ 91-123mm, chim mái từ 90-121mm; chiều dài chân chim đực từ 24-30mm, chim mái từ 25-32mm. (Chú thích: chim đực – ♂; chim mái – ♀)