Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Bắc Mỹ ngỗng nước, Tên khác: Bắc Mỹ ngỗng, Aechmophorus occidentalis, Ngỗng Tây
Lớp: Chim nước, Bộ: Phát, Họ: Ngỗng nước
Dữ liệu về kích thước
Chiều dài: 56-74 cm
Cân nặng: Khoảng 1.4 kg
Tuổi thọ: Chưa có thông tin xác minh
Đặc điểm nổi bật
Là loài ngỗng nước dài nhất
Giới thiệu chi tiết
Bắc Mỹ ngỗng nước (Tên khoa học: Aechmophorus occidentalis) có tên tiếng Anh là Western Grebe và có 2 phân loài.
Bắc Mỹ ngỗng nước sống hầu như cả đời trong nước, thường tập trung sống thành bầy, thường hoạt động theo đôi hoặc nhóm nhỏ ở mặt nước rộng. Chúng không giỏi bay. Khi bơi, chúng sử dụng chân thay vì cánh, rất ít khi đi lại trên mặt đất. Chúng hoạt động ban ngày, trong thời kỳ sinh sản thường hoạt động trong các bụi thực vật nổi hoặc vùng nước gần đó, và trốn vào các bụi cỏ khi gặp người. Thời gian hoạt động ban ngày khá dài, từ sáng sớm đến chiều tối, hầu như luôn ở trong nước và hiếm khi lên bờ. Chúng thường lặn và có thể lặn trong thời gian từ 30-50 giây mỗi lần.
Bắc Mỹ ngỗng nước chủ yếu tìm kiếm thức ăn bằng cách lặn, thường lặn ở độ sâu 1-4 mét. Chúng là loài chim ăn thịt nước, săn mồi các loại côn trùng, ngao, cá, và các sinh vật khác.
Phần đáng chú ý nhất trong cuộc sống của Bắc Mỹ ngỗng nước là màn thể hiện khi giao phối với những điệu nhảy cực kỳ duyên dáng. Trong thời gian này, ngỗng đực và cái thể hiện tình yêu trên mặt nước, chúng hôn, tặng quà, cho ăn, và nhảy múa, đến cao trào, Bắc Mỹ ngỗng nước đứng trên mặt nước với những dáng vẻ không thể tin được, tranh đua với nhau, đi lại như bay, khoảng cách thường lên đến hơn 100 mét. Nữ giới dùng cách này để kiểm tra sức mạnh cơ thể và độ trung thành của nam giới. Trong thời kỳ sinh sản, chúng xây tổ nổi gần bờ nước, sử dụng cỏ, rơm và một số đất sét. Mỗi lứa trứng từ 2-4 quả, đôi khi 1-6 quả, trứng màu xanh nhạt hoặc trắng, thường bị ô nhiễm. Cả ngỗng đực và cái đều thay phiên ấp trứng. Trứng nở sau khoảng 24 ngày và thường không đồng bộ; những con nở sau có thể bị bỏ rơi. Các con non là loài nở sớm, sau khi nở lông tơ phủ đầy cơ thể, vào ngày hôm sau có thể xuống nước bơi lội và hoạt động tự do, trong 2-3 tuần đầu, chim bố mẹ thường để con non trên lưng, nếu bị dọa sẽ nhúng chúng vào dưới cánh. Sau 10 tuần, chúng có thể bay lần đầu tiên. Mỗi năm chỉ có một lứa trứng.
Bắc Mỹ ngỗng nước chọn thời gian sinh sản vào mùa có nhiều thức ăn. Thông thường một lứa gồm từ 2 đến 6 quả trứng màu trắng hoặc màu kem, thời gian ấp từ 20 đến 30 ngày, tổ thường được tạo thành từ cỏ nước. Các bậc phụ huynh thường mang theo chú chim non trên lưng, bao gồm cả khi lặn hoặc khi có nguy hiểm. Thời gian lặn của Bắc Mỹ ngỗng nước là từ 10 đến 40 giây.
Được liệt kê trong danh sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) năm 2012 – Loài ít nguy cấp (LC).
Bảo vệ động vật hoang dã, không tiêu thụ động vật hoang dã.
Bảo vệ cân bằng sinh thái là trách nhiệm của mọi người!
Phạm vi phân bố
Phạm vi phân bố ở khu vực Bắc Mỹ, bao gồm Hoa Kỳ và Canada, từ đông nam Alaska đến California, Hoa Kỳ và các khu vực phía bắc Mexico như Chihuahua. Mùa đông thường thấy ở bờ biển Thái Bình Dương của Canada và Hoa Kỳ. Chúng sống ở hồ, ao, kênh rạch, đầm lầy và các vùng đất ngập nước, cũng có thể thấy ở các con sông chảy chậm và các vùng đầm sen ven biển. Là một loài chim di cư, trong mùa sinh sản sống trong các hồ nước ngọt có nhiều cỏ sọc và rơm. Thường trú tại các hồ prairie ở tỉnh British Columbia, Canada và California, Hoa Kỳ, thỉnh thoảng cũng được phát hiện ở Mexico. Vào mùa đông, chúng di cư đến bờ biển Thái Bình Dương.
Tập tính và hình thái
Bắc Mỹ ngỗng nước là loài chim nước. Chiều dài khoảng 56 đến 74 cm, cân nặng khoảng 1400 gram, là loài ngỗng nước dài nhất. Phần đầu và lưng cổ có màu đen, lưng có màu nâu xám, dưới thân đều màu trắng, có mỏ màu vàng nhạt hoặc màu ô liu, mắt đỏ được bao quanh bởi vòng mắt tối. Khi bay, có thể thấy vệt trắng ở cánh. Cổ dài và mảnh mai, con cái nhỏ hơn con đực một chút. Mỏ dài, màu xanh lá. Hình dạng mỏ thẳng, bị nén ở hai bên và có mũi nhọn; lỗ mũi ở gần gốc mỏ; cánh ngắn, có 12 lông cánh chính, lông cánh chính số 1 còn sót lại, lông cánh thứ cấp thiếu lông thứ 5. Đuôi chỉ có một số lông vũ ngắn mềm, hoặc gần như không có. Hai chân nằm gần hông. Cẳng chân bên bị nén, phù hợp để lặn; cả 4 ngón chân đều có màng rộng; móng tay cùn và rộng, mép trong của ngón giữa có hình răng cưa, ngón sau nhỏ hơn, vị trí cao hơn so với các ngón khác. Mắt cá và khớp ngón rất linh hoạt, giúp hoạt động trong nước. Lông tầm ngắn và dày, có khả năng chống thấm nước; lông có lông tơ, tuyến mỡ ở đuôi; cả hai giới đều tương tự nhau. Xương sọ kiểu khe hở và kiểu mũi đầy đủ; thiếu mấu xương cánh; hệ tiêu hóa không có ruột mù; con non có tính sinh sản sớm.