Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Trung: Thiên Sơn Hoàng Thử
Tên khác: Hoàng Thử
Ngành: Gặm nhấm
Họ: Gặm nhấm – Họ sóc – Chi Hoàng thử
Dữ liệu hình thể
Chiều dài cơ thể: Khoảng 250 mm
Cân nặng:
Tuổi thọ:
Đặc điểm nổi bật
Kích thước cơ thể tương tự như Thử má đỏ, nhưng đuôi dài hơn Thử má đỏ.
Giới thiệu chi tiết
Thiên Sơn Hoàng Thử có kích thước trung bình, đuôi dài, chủ yếu sống ở các đồng cỏ núi có độ cao từ 1000-1500m, ở những sườn đồi, thung lũng nhỏ giữa núi, cũng như những khu vực khô ráo bên hai bên dòng sông. Chúng thường sống trên những sườn núi có đá cuội lộ ra, ưa thích những khu vực đất tơi xốp có sự phát triển tốt của thực vật. Thực vật nơi sống chủ yếu là quần thể cỏ mũi nhọn – cây ngải. Thỉnh thoảng có thể thấy gần khu vực đồng ruộng, nhưng số lượng không nhiều.
Thiên Sơn Hoàng Thử bắt đầu ra khỏi trạng thái ngủ đông vào giữa và cuối tháng 3, chuột con phân cư vào đầu tháng 7, bắt đầu ngủ đông vào cuối tháng 8 đến đầu tháng 9. Chúng hoạt động chủ yếu vào ban ngày, nhưng hoạt động mạnh nhất vào 3-4 giờ sau khi mặt trời mọc và 2-3 giờ trước khi mặt trời lặn; thường nghỉ ngơi trong hang vào giữa trưa nóng bức.
Thiên Sơn Hoàng Thử có các loại hang giống như các loài hoàng thử khác, có thể phân biệt giữa hang ở và hang tạm thời. Hang ở thường có một cửa ra vào, một số ít có 2-3 cửa, đường hầm quanh co và dài, có tổ ấm. Hang tạm thời tương đối đơn giản, không có tổ. Vào mùa hè, các hang ở khá phân tán, thường được tìm thấy ở những nơi có độ đa dạng thực vật cao và cây xanh tươi tốt, trong khi vào mùa đông, các hang ở thường tập trung hơn, thường nằm ở những sườn núi ấm, bên dưới ánh ánh mặt trời nơi tuyết tan nhanh chóng vào mùa xuân và thực vật mọc sớm.
Thiên Sơn Hoàng Thử ăn phần xanh của cây ngải và nhiều loại cỏ. Tuy nhiên, ở những khu vực có mật độ châu chấu cao, chúng coi châu chấu là nguồn thức ăn chính, cho thấy thiên hướng ăn châu chấu rõ rệt.
Thiên Sơn Hoàng Thử đạt độ trưởng thành sinh dục vào năm thứ hai, tức là sau khi trải qua một lần ngủ đông. Mỗi năm sinh một lứa, mỗi lứa thường từ 4-8 con. Năm 1983, mật độ quần thể trong khu bảo tồn thiên nhiên Gissar ở Uzbekistan là 2.8 con/ha. Xu hướng phát triển quần thể của loài này hiện vẫn chưa rõ.
Phân bố
Trong nước chỉ phân bố tại Tân Cương. Ngoài nước có mặt ở các khu vực bên ngoài Thiên Sơn. Sống trong môi trường đồng cỏ.
Tập tính và hình thái
Màu lông mùa hè: Mặt lưng có màu nâu xám sáng, đuôi có màu vàng nâu nhạt, đầu đuôi có vùng màu nâu đen khá rộng, cuối cùng là màu vàng trắng. Màu lông mùa đông: nhạt và xám hơn, thường có tông màu vàng nhạt. Xương gò má nhô cao, mũi ngắn. Răng hàm trên có chiều dài hơi dài hơn khoảng cách khe răng.