Chuột nhảy ba ngón chân

Thông tin cơ bản

Phân loại khoa học

Tên tiếng Việt: Chuột nhảy ba ngón

Phân loại: Bộ Gặm nhấm

Họ: Chuột nhảy

Giống: Chuột nhảy ba ngón

Dữ liệu về đặc điểm

Chiều dài cơ thể: 50-56mm

Cân nặng: 10g

Tuổi thọ:

Đặc điểm nổi bật

Hình dáng nhỏ, đuôi dài, khoảng gấp đôi chiều dài cơ thể, lông đuôi thưa thớt, vảy đuôi có thể nhìn thấy, lông ở đầu đuôi rất dài.

Giới thiệu chi tiết

Chuột nhảy ba ngón thuộc về phân họ Cardiocraniinae. Mặc dù loài này phân bố rộng rãi, nhưng số lượng rất ít. Ở toàn quốc, mẫu vật rất hiếm. Phân loại không có tranh cãi với 2 phân loài. Thông tin sinh thái rất ít và nghiên cứu còn yếu.

Chuột nhảy ba ngón

Chuột nhảy ba ngón là loài đặc hữu của khu vực hoang mạc Trung Á, phân bố hẹp, sống ở khu vực có độ che phủ thấp của cây sẽ sẽ, cồn cát di động và nửa di động cũng như những nơi có cát mịn hoặc sa mạc. Đường hầm ngắn và cấu trúc đơn giản. Năm 1982, tại công viên Minh Sa, đã tình cờ phát hiện một cái hố dài khoảng 30-40cm, đường kính miệng hố 3-4cm. Bắt đầu sinh sản vào cuối tháng Tư, phát hiện chuột có thai vào tháng Năm, mỗi lứa từ 3-4 con. Hoạt động vào lúc hoàng hôn và ban đêm, ngủ đông. Chế độ ăn chủ yếu là thân và lá thực vật cùng với hạt giống. Cũng săn lùng côn trùng bộ cánh cứng. Kẻ thù tự nhiên là loài chồn. Do số lượng quần thể loài này tương đối ít, việc bắt chúng ở ngoài tự nhiên tương đối khó khăn.

Chuột nhảy ba ngón

Được đưa vào danh sách đỏ các loài nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) năm 2013 – Loài dễ bị tổn thương (VU).

Được đưa vào Phụ lục I của Công ước Washington (CITES).

Được đưa vào Danh sách động vật hoang dã có ích hoặc có giá trị kinh tế, nghiên cứu khoa học quan trọng do Cục Lâm nghiệp Quốc gia Trung Quốc phát hành ngày 1 tháng 8 năm 2000.

Chuột nhảy ba ngón

Khu vực phân bố

Phân bố trong nước ở phía bắc Tân Cương, phía tây Nội Mông, cũng như ở Thiên Tân, Cam Túc, phía bắc Ninh Hạ. Phân bố ở nước ngoài tại Mông Cổ.

Tập tính và hình thái

Chiều dài cơ thể 50-56mm. Đuôi dài khoảng 2,5 lần chiều dài cơ thể, trung bình đạt 120mm. Chiều cao tai thường không vượt quá 12mm. Cân nặng khoảng 10g. Lông đuôi có màu trắng thưa thớt từ gốc, kéo dài ra hai bên, phần cuối 1/4 tạo thành búi lông nâu. Phần gốc đuôi 1/4 nở rõ rệt vào mùa thu. Mùa hè, lông có màu nâu xám, bụng hoàn toàn trắng. Đến mùa thu, lông dần trở nên nhạt đi, trở thành màu xám trắng trên toàn thân, búi lông đuôi cũng chuyển sang màu nâu xám.

Câu hỏi thường gặp