Chồn chân đen

Thông tin cơ bản

Phân loại khoa học

Tên tiếng Việt: Chồn chân đen

Tên gọi khác: Chồn chân đen, chồn mắt đen

Khoa: Thú

Bộ: Ăn thịt

Họ: Chồn

Dữ liệu đặc điểm

Chiều dài cơ thể: 31-41 cm

Cân nặng: 0.8-1 kg

Tuổi thọ: 3-9 năm

Đặc điểm nổi bật

Là loài chồn duy nhất có nguồn gốc từ Bắc Mỹ

Giới thiệu chi tiết

Chồn chân đen (tên khoa học: Mustela nigripes) là một loài động vật có vú ăn thịt nhỏ có nguồn gốc từ Bắc Mỹ và là loài chồn duy nhất có nguồn gốc từ khu vực này, không có phân loài.

Chồn chân đen

Chồn chân đen là loài động vật sống trong hang. Chúng nhanh nhẹn, linh hoạt và hoạt động vào ban đêm. Khu vực sinh sống khoảng 50 hecta. Thường hoạt động đơn độc, nhưng có thể tụ tập vào mùa sinh sản từ tháng 3 đến tháng 4. Chồn chân đen có thính giác, thị giác và khứu giác rất nhạy bén, nước tiểu là công cụ giao tiếp quan trọng để đánh dấu lãnh thổ hoặc đường về nhà.

Chồn chân đen thuộc nhóm động vật hoạt động vào ban đêm và thích sống độc lập. Chúng không đào hang để làm tổ mà sử dụng các hang bỏ hoang của chuột đồng làm nơi nghỉ ngơi và săn mồi. Vào mùa đông, chúng thường giảm hoạt động đến mức tối đa, có thể không ra ngoài tìm thức ăn từ 5 đến 6 ngày. Chồn chân đen có ý thức lãnh thổ mạnh mẽ và thường xảy ra xung đột giữa các cá thể cùng giới vì lãnh thổ.

Chồn chân đen săn bắt chuột đồng và sóc đất, chủ yếu là chuột đồng, chiếm khoảng 90% tổng lượng thức ăn của chúng. Sự sống còn của chồn chân đen gắn liền với chuột đồng. Một con chồn chân đen cần khoảng 100 con chuột đồng mỗi năm, đôi khi thậm chí sống trong hang của chúng.

Chồn chân đen có sự khác biệt về giới tính, con đực thường lớn hơn con cái. Trong mùa giao phối, con cái tích cực theo đuổi con đực. Quá trình mang thai của chồn chân đen được gọi là “cấy ghép trì hoãn”, trong đó phôi thai chỉ bắt đầu phát triển trong điều kiện thích hợp. Chồn chân đen cái đạt tuổi trưởng thành ở khoảng một tuổi, có ba tuyến vú. Mùa sinh sản thường kéo dài từ tháng 3 đến tháng 4. Thời gian mang thai từ 35 đến 45 ngày. Mỗi lứa đẻ từ 1 đến 6 con, trung bình 3.5 con. Khi sinh ra, con non không có khả năng nhìn, và ở lại trong hang khoảng 42 ngày trước khi ra ngoài. Vào mùa hè từ tháng 7 đến tháng 8, con cái sống cùng con non, con non không yếu đuối mà thường có kích thước đạt khoảng một nửa hoặc ba phần tư cơ thể của chồn chân đen trưởng thành, và sẽ trở nên độc lập vào mùa thu.

Các yếu tố chính dẫn đến sự giảm sút nghiêm trọng về số lượng chồn chân đen bao gồm: Sự giảm sút về số lượng nguồn thức ăn chủ yếu – chuột đồng. Vào thế kỷ 20, để tiêu diệt loài động vật gặm nhấm gây hại cho đồng cỏ, các chủ trang trại đã rải nhiều bả độc, dẫn đến sự diệt vong của chuột đồng, và chồn chân đen cũng trở thành nạn nhân theo sau; Mất môi trường sống; Thiên tai và dịch bệnh. Mặc dù chồn chân đen ít xung đột với con người và không bị săn bắn nhiều, nhưng sự xuất hiện của bệnh dịch từ bên ngoài, mất môi trường sống và giảm số lượng chuột đồng đã đem lại cú sốc lớn cho loài động vật này. Số lượng của chúng vẫn tương đối thấp, đến tận năm 1851 mới được công nhận là một loài độc lập. Vào thời điểm đó, số lượng chồn chân đen vô cùng thấp, gần như tiệt chủng. Chồn chân đen từng một thời được xem là loài động vật có vú nguy cấp nhất ở Bắc Mỹ.

Năm 1937, chồn chân đen đã tuyệt chủng ở Canada, và đến năm 1967, không có ai phát hiện chúng ở Mỹ suốt nhiều năm. Theo đó, các chuyên gia động vật hoang dã cho rằng chồn chân đen đã tuyệt chủng vào cuối những năm 70 của thế kỷ 20, nhưng vào giữa những năm 80, khoảng 120 con chồn chân đen đã được phát hiện tại tiểu bang Wyoming, Mỹ. Năm 1985, sau khi hai bệnh dịch bùng phát bất ngờ khiến hầu hết chồn chân đen chết, 18 con chồn chân đen còn sống cuối cùng đã được bắt giữ. Dưới sự phối hợp giữa Sở Đánh bắt và Nuôi cá tiểu bang Wyoming và Dịch vụ Cá và Động vật Hoang dã Hoa Kỳ, tất cả chồn chân đen đã được đưa từ môi trường hoang dã vào chương trình nhân giống nhân tạo. Sau những nỗ lực thuần hóa và phục hồi, chồn chân đen đã được đưa trở lại tự nhiên tại tám tiểu bang của Mỹ (Montana, South Dakota, Wyoming, Colorado, Utah, Arizona, Kansas và New Mexico), một tiểu bang của Mexico và một tiểu bang của Canada. Đến năm 2007, số lượng chồn chân đen đã đạt 750 con, mức độ nguy cấp đã được giảm xuống thành nguy cấp (EN), và số lượng vẫn đang tăng.

Vào ngày 18 tháng 2 năm 2020, Dịch vụ Cá và Động vật Hoang dã của Mỹ đã công bố thành công lần đầu tiên trong việc nhân bản một động vật nguy cấp – một con chồn chân đen. Được biết, con chồn chân đen này đã được nhân bản thành công bằng cách sử dụng gen đông lạnh từ một con chồn chân đen chết cách đây hơn ba mươi năm và một con “mẹ thay thế”.

Được đưa vào Phụ lục I, II và III của Công ước về Buôn bán Quốc tế các Loài Động vật Hoang dã Nguy cấp (CITES) phiên bản năm 2019.

Được đưa vào Danh sách Đỏ các loài nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Tự nhiên Thế giới (IUCN) phiên bản 3.1 năm 2015 – nguy cấp (EN).

Bảo vệ động vật hoang dã, ngừng tiêu thụ động vật hoang dã.

Duy trì sự cân bằng sinh thái, mọi người đều có trách nhiệm!

Phạm vi phân bố

Lịch sử, chồn chân đen sống rộng khắp ở các khu vực nội địa Bắc Mỹ, từ phía nam Canada đến phía bắc Mexico. Chồn chân đen là loài chồn duy nhất có nguồn gốc từ Bắc Mỹ. Tính đến năm 2016, chúng chỉ còn sống sót trong ba khu vực ngoài tự nhiên: phía đông bắc Montana, phía tây Nam Dakota và phía đông nam Wyoming. Tất cả ba khu vực này đều được tái giới thiệu sau khi chồn chân đen nguyên thủy bị tuyệt chủng. Populace của chồn chân đen cũng tồn tại trong bảy vườn thú và các cơ sở nuôi nhốt. Loài này sống trong các vùng đồng cỏ, ở độ cao từ 1600 đến 2200 mét, trong các hoang mạc hoặc đụn cát và đồng cỏ, bao gồm vùng thung lũng đồng cỏ khô và vùng lòng chảo giữa các núi. Chúng sống trong đồng cỏ thấp và trung bình, nơi có đủ chuột đồng (Cynomys species). Một con chồn chân đen cần từ 40 đến 60 hecta để kiếm ăn.

Tập tính và hình thức

Chồn chân đen là một trong những loài động vật có vú hiếm nhất thế giới và là loài chồn duy nhất ở Bắc Mỹ. Chiều dài cơ thể từ 31-41 cm, chiều dài đuôi từ 11-15 cm, cân nặng từ 0.8-1 kg, con đực thường lớn hơn con cái. Cơ thể mảnh mai. Con đực lớn hơn một chút, lông trên lưng màu vàng, bụng màu xám trắng, đuôi màu tối và đầu đuôi màu đen, miệng, mặt, cổ và phần trán có màu trắng, chuyển tiếp từ màu đen sang màu nâu vàng, quanh mắt có mặt nạ màu đen, mũi màu đen, chân ngắn, có các chi trước mạnh mẽ và bàn chân lớn, thuận lợi cho việc đào bới.

Một số câu hỏi thường gặp