Chim hải âu Úc

Thông tin cơ bản

Phân loại khoa học

Tên tiếng Việt: Hải âu Hutton Tên khác: Puffinus huttoni, Hutton’s Shearwater, Pardela de Hutton Lớp: Chim biển Bộ: Thuộc bộ Hải âu, họ Hải âu, giống Hải âu

Dữ liệu về đặc điểm

Chiều dài: khoảng 38 cm Cân nặng: 242-378g Tuổi thọ: Chưa có tài liệu xác thực

Đặc điểm nổi bật

Là một loại hải âu có kích thước trung bình, màu nâu trắng.

Giới thiệu chi tiết

Hải âu Hutton (tên khoa học: Puffinus huttoni) không có phân loài.

hình ảnh hải âu Hutton

Trong mùa sinh sản mùa hè, hải âu Hutton thường tụ tập ở bờ biển Kaikoura, có thể thấy chúng bay xung quanh trên cạn hoặc trên biển. Những con chim này thường bay gần mặt nước để tìm kiếm thức ăn hoặc nghỉ ngơi. Một nhóm chim đi kiếm thức ăn có thể bao gồm những con chim lặn xuống đáy nước để săn bắt động vật giáp xác và những con chim bay thấp xuống nước để tìm kiếm cá nhỏ. Những cú lặn do đôi cánh được gập lại giúp chúng lặn sâu từ 20-30 mét. Những con chim đang sinh sản bay ra vào giữa các khu vực núi cao dưới bóng tối. Những con chim đến sớm trong mùa thường thấy đàn chim được phủ bởi tuyết, nhưng vào thời điểm muộn hơn trong năm, đàn chim trở nên nóng bức và khô ráo. Những con chim không sinh sản thường xuất hiện quanh vùng nước ở Australia.

Hải âu Hutton chủ yếu ăn cá nhỏ và tôm biển. Chúng thu thập thức ăn cho con non ở phía nam tới bán đảo Otago và thường đánh bắt gần bờ ở vịnh Banks Peninsula. Đảo Kapiti và eo biển Cook là những khu vực tìm kiếm thức ăn phổ biến ở phía bắc, cũng có ghi nhận cá thể đi kiếm ăn gần quần đảo Chatham. Hải âu Hutton thường lặn ở khoảng độ sâu 25 mét, có ghi nhận lặn sâu tới 36.6 mét. Nghiên cứu cho thấy, những con hải âu trưởng thành tìm kiếm thức ăn ở vùng cách Kaikoura khoảng 100-300 km và 250 km ngoài khơi. Chuyến đi tìm thức ăn trung bình kéo dài 7 ngày, độ sâu lặn trung bình là 4.7 mét. Trên biển thường rất yên tĩnh, nhưng trong khu vực sinh sống và khu vực trên đầu chúng thì lại rất ồn ào với những tiếng hồ hởi giống như những tiếng kêu to.

hình ảnh hải âu Hutton 2

Khu vực sinh sản của hải âu Hutton nằm ở những sườn dốc cỏ, với đất sâu và dễ vỡ. Mật độ ổ ở các nhóm khác nhau và trung bình là 0.5 ổ trên một mét vuông. Thời gian đẻ trứng rơi vào đầu tháng 11, thời gian ấp trứng là 50 ngày. Thời gian nuôi dưỡng con non kéo dài hơn so với các loài thuộc họ này, trung bình là 83 ngày con non mới ra khỏi ổ. Điều này có thể do khó khăn trong việc kiếm đủ thức ăn, hoặc liên quan đến chi phí năng lượng khi sinh sản ở các khu vực núi cao với độ cao 1200 mét.

Được biết, con chồn Bắc Mỹ xâm lấn sẽ kiếm ăn các loài chim biển làm tổ, sự tồn tại của hải âu Hutton trong hai quần thể còn lại là mối quan tâm chính cho sự sinh tồn của loài này. Ban đầu, chồn được coi là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm của loài này; tuy nhiên, các nghiên cứu dài hạn cho thấy chỉ một số ít con trưởng thành bị捕. Ảnh hưởng đến sự sinh sản có thể rất ít. Những mối đe dọa chính được coi là sự săn bắt và quấy rối của lợn rừng và mèo hoang, nhưng thường thì chúng không xuất hiện trong khu vực sinh sản. Các mối đe dọa khác từ sự phá hủy nơi sống của lợn nhà và sự săn bắn của một loạt các động vật ăn cỏ xâm lấn có thể dẫn đến sự xóa sổ hoàn toàn của một số quần thể, dẫn đến mất nơi sống lớn và sự co lại của vùng sinh sống. Từ năm 1998-1999, ít nhất một con mèo đã xuất hiện trong quần thể Kowhai Valley, nhưng không có mèo trong quần thể này, vì vậy mèo có lẽ chỉ gây ra cái chết của một số loài thỉnh thoảng.

hình ảnh hải âu Hutton 3

Cũng ghi nhận việc bất ngờ bắt được hải âu Hutton qua lưới và khai thác gần bờ, lên đến 80 con hải âu Hutton bị một cái lưới bắt được. Thêm vào đó, việc khai thác quá mức một số loài cá ở gần bờ có thể ảnh hưởng đến sự sẵn có của con mồi cho hải âu Hutton và có thể ảnh hưởng nghiêm trọng. Các mô hình cho thấy quần thể này dễ bị tổn thương nhất trước sự mất mát của những con non. Do đó, duy trì tỉ lệ sống sót cao là rất quan trọng.

Hải âu Hutton chưa trưởng thành bị cấm bay do ô nhiễm ánh sáng; tuy nhiên, tỷ lệ chim bị ảnh hưởng trung bình mỗi năm luôn giữ ở mức dưới 1%, 80% con non bị mắc cạn có thể được cứu và thả lại.

Do phân bố địa lý hạn chế, biến đổi khí hậu là mối đe dọa tiềm tàng đối với loài này; nó hoàn toàn nằm trong phạm vi từ đỉnh núi cao nhất của nó (2.885 mét) đến dưới 2.000 mét. Sinh sản ở độ cao lớn cũng khiến loài này dễ bị ảnh hưởng bởi lượng tuyết bất thường hoặc thời gian rơi tuyết; tuyết nặng có thể làm sập ổ, và tuyết rơi muộn có thể làm chậm hoặc ngăn chặn sự sinh sản.

Được đưa vào danh sách đỏ các loài nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) năm 2019 phiên bản 3.1 – Nguy cấp (EN).

Bảo vệ động vật hoang dã, cấm sử dụng động vật hoang dã.

Bảo vệ cân bằng sinh thái là trách nhiệm của mọi người!

Phạm vi phân bố

Hải âu Hutton sinh sản ở dãy núi Kaikoura thuộc đảo Nam của New Zealand, nằm ở hướng đông bắc. Bao gồm hai khu vực chính “Kowhai Valley” và “Shearwater Stream” nằm cách nội địa 10-18 km. Số lượng và phân bố trong dãy núi Kaikoura đã giảm, có 8 trên 10 quần thể được biết đến trong thế kỷ 21 đã tuyệt chủng. Trong số tám quần thể phát hiện được trong dãy núi Kaikoura, sáu quần thể có thể đã bị lợn rừng tuyệt chủng, lợn rừng vẫn đang là mối đe dọa tiềm tàng đối với hai quần thể còn lại. Do phát hiện các quần thể đã biến mất nhanh chóng, một quần thể thứ ba trên bán đảo Kaikoura đã được hình thành thông qua việc di chuyển chim non. Vào mùa không sinh sản, những con chim thường di cư đến vùng biển phía nam, tây và tây bắc của Australia. Loài này sinh sống trong các lỗ được đào dưới những sườn núi dốc hoặc bằng phẳng ở độ cao 1.200-1.800 mét, dưới lớp cỏ hoặc trong những bụi cây nhỏ ở vùng núi cao. Từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, hải âu Hutton xuất hiện ở vùng nước gần bờ gần Kaikoura.

Hành vi và hình dáng

Hải âu Hutton có chiều dài 38 cm, sải cánh 72-78 cm, cân nặng từ 242-378 gram. Là một loại hải âu có kích thước trung bình, màu nâu trắng. Thường có màu đen ở phía trên và trắng ở phía dưới. Chúng có đầu và phần trên cơ thể màu nâu đồng nhất. Một vệt đen rộng trải từ cổ xuống cằm và cổ họng, tạo nên sự tương phản rõ nét với phần dưới màu trắng. Lông cánh dưới có màu xám trắng hòa nhập với viền tối, đặc biệt ở đầu cánh và phần “nách” nổi bật. Có đốm nâu ở ngực và phần đùi. Cánh dưới màu xám với viền nâu sẫm. Mỏ dài và mảnh, màu xám tối. Mống mắt màu đen, bàn chân và chân màu hồng đến nâu với màng chân màu tối. Khi bay, bàn chân kéo dài ra phía sau.

Câu hỏi thường gặp