Chim bói cá mỏ thìa

Thông tin cơ bản

Phân loại khoa học

Tên tiếng Việt: Chim bói cá mỏ muỗng Tên gọi khác: Chim bói cá mỏ thìa, Clytoceyx rex, Shovel-billed Kingfisher Bộ: Pauropsida Họ: Alcedinidae

Dữ liệu sinh trắc

Chiều dài cơ thể: 31-34 cm Trọng lượng: 245-325g Tuổi thọ: Chưa có tài liệu xác minh

Đặc điểm nổi bật

Là loài đại diện duy nhất của họ Bói cá tại New Guinea

Giới thiệu chi tiết

Chim bói cá mỏ muỗng có tên khoa học là Clytoceyx rex, tên tiếng Anh là Shovel-billed Kingfisher, có 2 phân loài.

Ảnh chim bói cá mỏ muỗng

Chim bói cá mỏ muỗng là loài chim cư trú. Chúng thường hoạt động đơn độc, thường nghỉ ngơi trên các cọc gỗ và đá bên bờ sông, đôi khi cũng nghỉ ngơi trên những cành thấp của cây gần bờ sông. Chúng thường chú ý đến mặt nước trong thời gian dài, và khi nhìn thấy cá hoặc tôm trong nước, chúng lập tức lao xuống nước với tốc độ nhanh và hung dữ để bắt lấy con mồi. Đôi khi, chúng cũng vỗ cánh lơ lửng trên không, cúi đầu nhìn xuống mặt nước, và khi thấy thức ăn, lập tức lao xuống nước, nhanh chóng bắt được. Chúng thường mang con mồi về nơi trú ẩn, đập nó vào cành cây hoặc đá cho đến khi chết, rồi nuốt chửng cả con. Đôi khi, chúng cũng bay ở độ cao thấp trên mặt nước với tốc độ bay rất nhanh, thường vừa bay vừa kêu. Thức ăn chính của chúng gồm giun đất lớn, côn trùng và ấu trùng, ốc sên, và thỉnh thoảng cũng ghi nhận việc bắt rắn nhỏ.

Ảnh chim bói cá mỏ muỗng

Chim bói cá mỏ muỗng thường làm tổ trên cây cao, cách mặt đất khoảng 25 đến 30 mét. Chúng dùng mỏ để khoét một cái hang rất ngắn trên thân cây, thường sử dụng hang này trong nhiều năm. Vào tháng 10 hàng năm, chúng bắt đầu sinh sản, mỗi lần đẻ 2 trứng, con cái nuôi con, mỗi khi cho con ăn xong, nó sẽ quay lưng lại và thải bỏ ra ngoài.

Được ghi vào danh sách đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) năm 2013 – loài ít lo ngại (LC).

Bảo vệ động vật hoang dã, không tiêu thụ thịt động vật hoang dã.

Bảo vệ cân bằng sinh thái, ai cũng có trách nhiệm!

Phạm vi phân bố

Phân bố ở bán đảo New Guinea và vùng vịnh Milne, ở đầu đông của một số đảo Indonesia, dãy núi Finisterre và Owen Stanley. Chúng sống trong rừng mưa ở vùng thấp và đến độ cao 2400 mét ở vùng núi. Phân bố rộng rãi hơn ở khu vực đồi và đồng bằng. Chúng sống dọc theo các dòng nước được bao quanh bởi thung lũng rừng và khe hẹp, và cũng sống trong các khu vườn mà con người sinh sống.

Đặc tính và hình dạng

Chim bói cá mỏ muỗng có chiều dài cơ thể 31-34 cm, con cái nặng từ 245-310 gram, con đực nặng từ 247-325 gram. Đầu con đực có nhiều màu sắc khác nhau: đỉnh đầu màu nâu sẫm, cổ màu cam với sắc đỏ, lỗ mũi màu cam, mắt màu cam, cổ họng màu trắng, cổ bên có màu cam nổi bật. Lưng màu đen, xương bả vai và cánh màu nâu rất đậm. Đuôi màu xanh sáng, tạo nên sự tương phản rõ rệt với đuôi màu nâu sẫm. Mặt dưới của cánh, ngực, hai cánh, bụng dưới và đuôi đều tạo thành một tông màu cam đồng nhất. Mỏ chim rất to và mạnh mẽ, hàm màu nâu sẫm. Mống mắt màu nâu sẫm, chân màu vàng nâu. Con cái tương tự như con đực, chỉ khác ở đuôi màu nâu đỏ. Chim non giống con cái, nhưng màu lông tối hơn. Lông ở cổ và ngực có viền nâu sẫm. Mỏ thẳng, dài và chắc, sống mỏ tròn; lỗ mũi không rõ; đầu cánh dài, lông cánh thứ nhất và thứ ba ngắn hơn, lông cánh thứ ba và thứ tư dài nhất; đuôi ngắn, tròn; lông cơ thể rực rỡ và sáng bóng, thường có màu xanh hoặc xanh lá. Đầu to, cổ ngắn, cánh ngắn và tròn, đuôi thường cũng ngắn; hình dạng mỏ dài và nhọn, đỉnh mỏ tròn và cùn, chân rất ngắn, ngón chân rất yếu, ngón chân thứ tư nối liền với ngón chân thứ ba phần lớn, chỉ nối với ngón chân thứ hai ở gốc. Tuyến dầu đuôi có lông. Có xương mỏ ở hai bên, mép sau xương ức có 4 rãnh, xương ức hình ống đơn giản được tạo thành bởi các gai bên ngoài.

Câu hỏi thường gặp