Cá voi chỉ có chân ngắn

Thông tin cơ bản

Phân loại khoa học

Tên tiếng Việt: Cá voi đuôi ngắn

Tên khác: Cá voi đuôi ngắn đại, cá voi đầu lớn

Ngành: Động vật có vú

Phân lớp: Cá voi có răng – Họ cá heo – Giống cá voi dẫn đường

Dữ liệu cơ thể

Chiều dài: 3.5-6.5 mét

Cân nặng: 1-4 tấn

Tuổi thọ: 40-60 năm

Đặc điểm nổi bật

Cá voi đuôi ngắn có vây ngắn và hình dáng tròn.

Giới thiệu chi tiết

Cá voi đuôi ngắn, tên tiếng Anh là short-finned pilot whale, là loài động vật sống ở vùng nước ấm.

cá voi đuôi ngắn

Cá voi đuôi ngắn dễ gây nhầm lẫn với các loài cá đen nhỏ khác như cá voi giả hổ, cá đầu búa và cá voi nhỏ, với vây lưng là đặc điểm phân biệt rõ nhất.

Chúng sống theo bầy đàn, thường tụ tập thành vài chục hoặc hàng trăm con. Khi bơi, thường sắp xếp thành các nhóm nhỏ từ vài đến hơn 10 con. Bầy cá chủ yếu được tạo thành từ một số con cá đực trưởng thành và nhiều con cá cái trưởng thành cùng cá con. Khi lặn, chúng thường không để đuôi nổi lên mặt nước, nhưng khi bơi thật nhanh và cần lặn lên, một lớp bọt li ti sẽ hình thành ở đầu và dưới hai bên cơ thể. Chúng có khả năng tập trung cao, nếu một con dẫn dắt thì cả nhóm sẽ đi theo. Chúng nhạy cảm với âm thanh và thường bơi về hướng ngược lại khi nghe thấy tiếng động. Thức ăn chính là động vật biển có vỏ và cá. Chúng thích sống ở các vùng nước ấm ven bờ và thường vào gần cảng để cho thuyền tiếp cận. Chúng hiếm khi nhảy khỏi mặt nước, nhưng thường dùng đuôi gõ mặt nước và nổi lên để quan sát. Trước khi lặn, chúng sẽ uốn cong và nâng đuôi; khi trở lại mặt nước để hít thở, chỉ có phần đầu nhô lên khỏi mặt nước, trong khi cá con thì cả đầu ngoi lên. Cá voi trưởng thành đôi khi bơi kiểu giống cá heo, nghĩa là phần lớn cơ thể nổi trên mặt nước.

Cá voi đuôi ngắn có thể giao phối ở cả vùng nước cao và thấp, và có thể sinh sản quanh năm. Cá đực trưởng thành từ 15-22 tuổi, dài 3.9-4.5 mét, cá cái từ 7-12 tuổi, dài 3.1-3.2 mét, đây là thời điểm chúng đạt độ tuổi sinh sản. Mùa sinh sản diễn ra từ tháng 6 đến tháng 8 hàng năm. Thời gian mang thai của cá cái là 11-13 tháng, mỗi lần sinh một con, cá con khi mới sinh dài khoảng 140 cm, thời gian cho ăn mẹ trung bình là hai năm, nhưng cũng có thể kéo dài từ 6 đến 10 năm. Khoảng cách giữa các lần sinh trung bình từ 4-5 năm, cá cái trong suốt cuộc đời sẽ sinh từ 4-5 con, khoảng sau 28 tuổi sẽ giảm tốc độ sinh sản, và dừng sinh sản sau 40 tuổi.

Số lượng cá voi đuôi ngắn trên toàn thế giới chưa được xác định rõ; theo các cuộc khảo sát từ 1990 đến 2005, ước tính có khoảng 5,300 con ở vùng biển tây bắc Nhật Bản và lên đến 53,608 con ở phía nam Nhật Bản. Dự đoán năm 1999 về số lượng cá voi đuôi ngắn tại Biển Sulu Đông là 7,700 con. Thống kê năm 2006 tại vùng biển Hawaii có khoảng 8,806 con. Đánh giá năm 2002 tại vùng nhiệt đới Thái Bình Dương cho thấy số lượng từ 2,000 con đã tăng lên 589,000 con, với hai khoảng thời gian 1986-1990 và 1998-2000 là các năm có sự gia tăng đáng kể. Năm 2002, các cuộc khảo sát ở Vịnh Mexico của Mỹ cho thấy ước tính có 2,388 con. Tình hình tốt nhất là ở Bắc Đại Tây Dương với 31,139 con. Năm 2003, số lượng cá voi cư trú tại Teneriffe (Tây Ban Nha) là 350 con. Năm 2015, một nhiếp ảnh gia dưới nước đã ghi lại hình ảnh một con cá voi đực cầm trong miệng xác một con cá con, bên cạnh có hai con cá cái đi theo, có vẻ như chúng đang tưởng nhớ con cá con đã chết.

Cá voi đuôi ngắn được đưa vào Danh sách các loài động thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng theo Công ước CITES, Phụ lục II.

Cá voi đuôi ngắn cũng nằm trong Danh sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) năm 2011 – Thiếu dữ liệu (DD).

Cá voi đuôi ngắn được đưa vào Danh sách các loài động vật hoang dã được bảo vệ đặc biệt của Trung Quốc, cấp độ 2.

Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn tiêu thụ động vật hoang dã.

Giữ gìn cân bằng sinh thái, trách nhiệm thuộc về mọi người!

Phạm vi phân bố

Chúng phân bố tại các đại dương như Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương ở các khu vực nhiệt đới và ôn đới, hiếm khi xuất hiện ở các khu vực lạnh. Các quốc gia và khu vực chính bao gồm: Samoa thuộc Mỹ, Angola, đảo Anguilla, Antigua và Barbuda, Aruba, Australia, quần đảo Bahamas, Bangladesh, Barbados, Campuchia, Cameroon, Cape Verde, Canada, quần đảo Cayman, Chile, Trung Quốc, Colombia, Comoros, Congo, Quần đảo Cook, Costa Rica, Djibouti, Guinea Xích đạo, Fiji, Polynesia thuộc Pháp, Gabon, Gambia, đảo Guadeloupe, Guatemala, Ấn Độ, Indonesia, Iran, Nhật Bản, Kenya, Hàn Quốc, Madagascar, đảo Mayotte, Mexico, Namibia, Quần đảo Antille thuộc Hà Lan, Oman, Nga, Panama, Singapore, Nam Phi, Quần đảo Solomon, Trinidad và Tobago, Tuvalu, Mỹ, Venezuela, Quần đảo Virgin, Anh, Sahara Tây, Yemen và nhiều nơi khác.

Tính cách và hình thái

Cá voi đuôi ngắn có thân hình chắc nịch, với trán tròn và nhô ra, không có mỏ rõ rệt. Miệng lớn, hàm trên nghiêng lên phía sau. Hai hàm gần như có chiều dài bằng nhau, mỗi bên hàm có từ 7-8 chiếc răng. Mắt nhỏ, gần hình tròn, nằm phía trên góc miệng. Phía trên và dưới đuôi có những đường rãnh. Vây ngực dài và nhọn, nằm ở phần đầu cơ thể, vây lưng cao và rộng, nằm trên lưng ở khoảng 1/3 chiều dài cơ thể, cao nhỏ hơn bề rộng, phần gốc dài gần bằng bề rộng, mép trước trên phẳng dần và nghiêng về phía sau, góc trên cùn, và mép sau cong sâu là đặc điểm phân biệt chính với các loài khác. Vây ngực hẹp và dài, khoảng 1/6 chiều dài cơ thể, phần gốc rộng nhất, mép trước hình sâu, nhô ra phía giữa, góc ngoài nhọn và cong về phía sau, mép sau sâu. Đuôi rộng, phẳng thành hai cánh bên, mép sau giữa có một khuyết. Toàn cơ thể có màu đen hoặc xám đậm, lưng màu đen hoặc nâu đen, bụng có màu nhạt hơn, có đốm xám hoặc trắng nghiêng ở sau mắt. Trên vây lưng có đốm trắng xám hình chữ thập. Giữa các vây và vùng họng có những đốm xám hoặc trắng hình như mỏ neo. Vây lưng, vây ngực và vây đuôi đều có màu giống cơ thể. Một số cá thể có toàn thân màu đen, và đốm hình chữ thập trên vây lưng không rõ ràng. Chiều dài của cá trưởng thành thường từ 3.5-6.5 mét, nặng 1-4 tấn, con đực lớn hơn con cái; cá con mới sinh dài khoảng 1.4-1.9 mét, nặng 60 kg. Cá voi đuôi ngắn rất giống với họ hàng gần của nó là cá voi đuôi dài, nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt. Như tên gọi, cá voi đuôi ngắn có vây ngắn hơn và các viền tròn hơn. Số lượng răng của chúng cũng ít hơn, mỗi hàm chỉ có từ 14-18 chiếc. Cá đực trưởng thành có thể có một số vết sẹo trên cơ thể. Hình dạng vây lưng cũng khác nhau giữa cá đực và cá cái, và cùng với sự trưởng thành, hình dạng của vây lưng cũng sẽ thay đổi. Cá con có thân hình thon dài, khi lớn thì sẽ có hình dáng chắc nịch hơn.

Câu hỏi thường gặp