Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Cá nước đục Tên khác: Cá vua có mào, Megaceryle lugubris, Cá vua có mào Ngành: Chim Bộ: Sẻ Họ: Cải cối Chi: Megaceryle
Dữ liệu thể chất
Chiều dài cơ thể: 37.2-42.5 cm Cân nặng: 244-500 g Tuổi thọ: Chưa có tư liệu xác minh
Đặc điểm nổi bật
Có mào lông nổi bật
Giới thiệu chi tiết
Cá nước đục, tên khoa học Megaceryle lugubris, tên nước ngoài Crested Kingfisher, có 3 phân loài (1. Phân loài cá nước đục thông thường Megaceryle lugubris guttulata. 2. Phân loài cá nước đục Hokkaido Megaceryle lugubris pallida. 3. Phân loài cá nước đục chỉ định Megaceryle lugubris lugubris).
Cá nước đục thường bay ở chính giữa các dòng suối, một khi thấy thức ăn sẽ lập tức lao xuống, hành động nhanh nhẹn. Thường trú ngụ một mình trên ngọn cây gần nước, trên cột điện hoặc đá, chờ thời cơ để săn bắt. Nó để con mồi lên cành cây và liên tục chỉnh sửa, thậm chí ném cá lên, nhằm nuốt cá từ đầu trước. Thức ăn chủ yếu là cá nhỏ, bên cạnh đó cũng ăn động vật giáp xác và nhiều loại côn trùng thuỷ sinh cũng như ấu trùng của chúng, cũng như một số loại ếch nhỏ và một lượng nhỏ thực vật thủy sinh. Sau khi xuống nước, cá nước đục vẫn có thể giữ được khả năng nhìn rất tốt, vì đôi mắt của nó có thể điều chỉnh nhanh chóng để thích ứng với góc nhìn do ánh sáng trong nước gây ra. Do đó, nó rất giỏi trong việc bắt cá. Tiếng kêu giống như tiếng huýt sáo chói tai.
Thời gian sinh sản của cá nước đục là từ tháng 2 đến tháng 8, chủ yếu sinh sản vào tháng 5 đến tháng 6. Tổ được xây dựng trên bờ dốc, vách đá, đầu ruộng hoặc bờ suối. Nó dùng mỏ để khoét, tổ hình tròn, kích thước tương đối nhỏ. Những lỗ này thường không có vật liệu lót bên trong. Trứng được đặt trực tiếp trên nền tổ. Mỗi tổ đẻ từ 3 đến 7 quả, thường là từ 4 đến 6 quả. Trứng hình bầu dục, màu trắng tinh, bóng sáng, hơi có đốm, kích thước khoảng 37-40 mm × 30-35 mm, mỗi năm có 1 đến 2 tổ; thời gian ấp khoảng 21 ngày, cả chim đực và chim cái cùng ấp trứng, nhưng chỉ có chim cái cho chim non ăn. Ở khu vực phía Bắc, cá nước đục làm tổ vào mùa xuân và mùa hè. Ở khu vực nhiệt đới phía Bắc, cá nước đục đẻ trứng từ tháng 9 đến tháng 3, trong khi ở phía Nam từ tháng 4 đến tháng 8. Ở vùng xích đạo, việc làm tổ và đẻ trứng có thể diễn ra vào bất kỳ thời điểm nào trong năm.
Được liệt vào danh sách “Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế” (IUCN) trong Danh sách Đỏ các loài nguy cấp năm 2012 phiên bản 3.1 – Không nguy cấp (LC).
Bảo vệ động vật hoang dã, chống lại việc tiêu thụ thịt hoang dã.
Bảo vệ cân bằng sinh thái là trách nhiệm của tất cả mọi người!
Phạm vi phân bố
Cá nước đục có nguồn gốc từ: Afghanistan, Bangladesh, Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Myanmar, Nepal, Pakistan, Thái Lan, Việt Nam. Chim di trú: Liên bang Nga. Cá nước đục sinh sống ở những con suối trong rừng, vùng đồng bằng chân núi, bụi rậm hoặc rừng thưa, sông ngòi trong sạch và chậm, ao hồ và các kênh tưới tiêu khác. Chúng thường bay trên các dòng sông, suối, ao và đất ngập nước để kiếm ăn.
Tập quán hình thái
Cá nước đục là một loài chim có kích thước trung bình. Chiều dài cơ thể từ 24-26 cm, sải cánh 45-47 cm, cân nặng 70-95 g, tuổi thọ 4 năm. Loài cá này có mào lông nổi bật. Lông màu đen, có nhiều đốm lớn hình bầu dục hoặc hình dạng khác màu trắng, phần giữa của mào hầu như hoàn toàn màu trắng, chỉ có một vài đốm tròn màu trắng; phần dưới mỏ, sau gáy, cổ màu trắng; lưng, hông và đuôi có lông màu xám đen, mỗi lông cũng có nhiều đốm ngang màu trắng. Cánh màu đen, lông bay sơ cấp có nhiều đốm tròn không quá tròn màu trắng, lông bay thứ cấp có nhiều đốm ngang màu trắng đồng bộ. Cằm và họng màu trắng, dưới mỏ có một đường sọc đen kéo dài đến ngực trước. Ngực trước màu đen, có nhiều đốm ngang màu trắng; bụng dưới và lông đuôi dưới ngắn màu trắng; lông đuôi dưới dài và hai bên như ngực trước, có màu đen trắng xen kẽ. Mống mắt màu nâu; cạnh mỏ màu đen, gốc và đầu mỏ có màu xanh nâu nhạt; chân màu nâu. Sự khác biệt giữa các phân loài chủ yếu là phân loài chỉ định có màu trên cơ thể nhạt hơn, đốm trắng rộng hơn, trong khi phân loài thông thường có màu trên cơ thể đậm hơn, đốm trắng hẹp hơn. Mỏ to và thẳng, dài và cứng, đỉnh mỏ tròn; khe mũi không rõ; đỉnh cánh dài, lông bay sơ cấp thứ nhất hơi ngắn, lông bay thứ 3 và 4 là dài nhất; đuôi ngắn và tròn; đầu lớn, cổ ngắn, cánh ngắn và tròn, đuôi cũng chủ yếu ngắn; hình dạng mỏ dài và nhọn, mỏ nhọn tròn và cùn, chân rất ngắn, móng mỏng yếu, ngón thứ tư phần lớn liên kết với ngón thứ ba, với ngón thứ hai chỉ kết nối ở gốc. Gland đuôi được che phủ (lông tơ). Có xương sống đen ở hai bên, xương ức có 4 khía ở phía sau, xương ức có thân đơn giản chỉ được tạo thành từ các gai bên ngoài.