cá chồn

Thông tin cơ bản

Phân loại khoa học

Tên tiếng Việt: Cá chồn, Tên khác: Cá mèo, Cá chồn Pennanti, Cá mèo Pennanti, Lớp: Thú, Bộ: Ăn thịt, Họ: Chồn, Phân họ: Chồn.

Dữ liệu về cơ thể

Chiều dài: 75-120 cm, Cân nặng: 3.5-5 kg, Tuổi thọ: 8-10 năm.

Đặc điểm nổi bật

Hình dạng giống chồn, trông như gấu con.

Giới thiệu chi tiết

Cá chồn (tên khoa học: Martes pennanti), tên tiếng Anh là Fisher, có 3 phân loài.

Hình ảnh của cá chồn

Cá chồn sử dụng “nơi nghỉ ngơi” vào tất cả các thời điểm trong năm, như gỗ chết, cây rỗng, gốc cây, và tổ trên mặt đất. Trong mùa đông, chúng thường sử dụng các hang động dưới lòng đất và tổ trên cây được sử dụng quanh năm, chủ yếu vào mùa xuân và mùa thu. Vào mùa đông, cá chồn có thể sử dụng các hang tuyết, những hang tuyết này nằm dưới tuyết và là một loại đường hầm dài và hẹp. Cá chồn cũng là những vận động viên bơi lội khéo léo.

Cá chồn hoạt động cả ngày lẫn đêm. Ngoài việc ăn các động vật nhỏ và xác thịt, nó còn ăn trái cây. Mặc dù có tên gọi là cá chồn nhưng chúng rất ít khi ăn cá, trừ khi đánh cắp cá do con người bắt được. Cá chồn săn mồi trên mặt đất và trên cây, truy đuổi các loài gặm nhấm khác nhau, bao gồm cả nhím và các động vật khác. Chúng là một trong số ít loài thú ăn nhím. Đầu tiên, chúng chế nhạo nhím, sau đó bất ngờ lật ngửa nhím và xé bụng nó. Thức ăn của chúng cũng bao gồm trái cây có thịt, đôi khi ăn hạt.

Cá chồn là một loài động vật ăn thịt hiếm gặp trong rừng phía Bắc Bắc Mỹ, thường bị săn bắt để lấy lông có giá trị màu nâu nhạt. Lông của con cái đặc biệt tốt.

Mùa sinh sản của cá chồn là vào mùa đông và mùa xuân, chúng là loài động vật có chu kỳ sinh sản theo mùa, sự phát triển của cơ quan sinh dục cũng có sự thay đổi theo chu kỳ mùa rõ rệt. Thời gian sinh sản kéo dài từ tháng 3 đến tháng 5. Thời gian mang thai từ 338-358 ngày, bao gồm thời gian trứng thụ tinh cấy vào thành tử cung. Sau khi thụ tinh, phôi thai ngừng phát triển trong 10-11 tháng, phục hồi sự phát triển vào mùa đông sau khi giao phối. Tổng thời gian mang thai kéo dài gần một năm, lên tới 11-12 tháng. Mỗi lứa trung bình sinh 3 con, mỗi lứa từ 1-6 con. Ngay sau khi sinh, con cái lại trải qua chu kỳ sinh sản sau khi sinh. Con cái khỏe mạnh lần đầu sinh sản khi được 1 tuổi, lần đầu sinh lứa con đầu tiên khi 2 tuổi, và có thể sinh sản hàng năm. Vì vậy, con cái hầu như dành toàn bộ cuộc sống trưởng thành của chúng cho việc mang thai hoặc cho con bú. Con đực lần đầu sinh sản khi 2 tuổi. Con cái đạt cân nặng trưởng thành ở tháng thứ 5.5, trong khi con đực đạt cân nặng trưởng thành sau 1 tuổi.

Cá chồn con khi mới sinh ra thì mù, gần như hoàn toàn không có lông. Mỗi con nặng khoảng 40 gram. Khoảng 53 ngày sau thì mở mắt. Trong 8-10 tuần bắt đầu cai sữa, nhưng đôi khi có thể được nuôi cho đến 4 tháng sau khi sinh. Khi được 4 tháng, cá chồn con có thể săn mồi, ít nhất 1 tháng sau sẽ tách bầy. Cá chồn con thường sống trong các lỗ cây rỗng, nếu có nhiều rác quá, con cái sẽ chọn di chuyển nhiều lần. Con đực không tham gia vào việc nuôi dưỡng con chồn con.

Cá chồn được ghi trong danh sách đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) năm 2016 – không có nguy cơ (LC).

Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn việc săn bắt động vật hoang dã.

Bảo vệ sự cân bằng sinh thái là trách nhiệm của mọi người!

Phạm vi phân bố

Nơi xuất xứ: Canada và Hoa Kỳ. Tại phía Bắc Bắc Mỹ có phạm vi phân bố lớn: từ Quebec, các tỉnh ven biển và phía Tây New England qua Bắc Canada đến phía Đông Alaska, phía Nam qua các dãy núi đến Utah, Wyoming, Idaho và California, từng sống ở phía Nam Illinois, Indiana, Tennessee và North Carolina. Phần lớn số lượng cá chồn ở phía Nam đã giảm do mất môi trường sống. Chúng sống trong rừng thông và rừng hỗn hợp ôn đới. Thích những nơi có tán cao. Thích sống trong môi trường có nhiều cây rỗng. Thông thường sống trong các khu rừng có cây như cây thông, cây tùng, cây thông trắng và một số cây cứng khác. Hơn nữa, sở thích về môi trường sống của chúng cũng phản ánh rằng nơi đó có những con mồi mà chúng cần để sinh tồn và yêu thích.

Hình thái tập tính

Cá chồn có hình dạng giống chồn, con đực lớn hơn và nặng hơn con cái. Chiều dài cơ thể 90-120 cm, cân nặng 3500-5000 gram. Con cái có chiều dài cơ thể 75-95 cm và cân nặng 2000-2500 gram. Đuôi của con đực dài 37-41 cm, trong khi đuôi của con cái dài 31-36 cm. Chúng có chiếc đuôi lông xù, phần mũi nhọn dần về cuối, tai tròn và thấp. Dưới chân có 5 ngón chân, móng vuốt có thể thu vào. Màu sắc của lớp lông từ nâu nhạt, nâu trung bình đến nâu đậm, với màu vàng đến bạc ở đầu và vai, chân và đuôi thì màu đen. Lớp lông cũng có thể có một mảng màu kem với kích thước và hình dạng biến đổi. Màu sắc và kích thước cơ thể thay đổi theo cá thể, giới tính và mùa.

Câu hỏi thường gặp