Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Cá tầm Schrencki, tên khác: Cá tầm Amur, cá tầm sông Hắc Long Giang, thuộc lớp cá tầm, bộ cá tầm.
Dữ liệu cơ thể
Chiều dài: Có thể đạt 290 cm, cân nặng: Có thể đến 160 kg, tuổi thọ: Khoảng 40 năm.
Đặc điểm nổi bật
Là loại cá tầm có giá trị kinh tế cao nhất trong các loài cá tầm hiện có ở Trung Quốc.
Giới thiệu chi tiết
Cá tầm Schrencki có tên khoa học là Acipenser schrencki, tên tiếng Anh là Amur Sturgeon, có các đặc điểm như kích thước lớn, tuổi thọ dài, tỷ lệ sống của cá con cao, tốc độ tăng trưởng nhanh, kết hợp giữa mục đích trang trí và ẩm thực.
Cá tầm Schrencki là loài cá ăn thịt, hệ thống tiêu hóa của nó bao gồm cả túi mù của cá xương và ruột phẳng của cá sụn, do đó có khả năng hấp thụ nước rất tốt. Cá trưởng thành ăn côn trùng dưới nước và giai đoạn trẻ của chúng, động vật thân mềm, giáp xác đáy và giai đoạn của cá mòi, đôi khi ăn cả cá nhỏ. Thức ăn chính của cá con chủ yếu là động vật phù du và giai đoạn trẻ của côn trùng dưới nước. Khi phẫu tích, có thể thấy trong dạ dày có thể có cả mảnh vụn thực vật dưới nước, vì vậy cá tầm Schrencki cũng ăn thực vật dưới nước khi thức ăn động vật hạn chế.
Cá tầm Schrencki có hành động ăn uống khá chậm, chủ yếu sử dụng cảm giác chạm và khứu giác để săn mồi. Cá trưởng thành có khả năng ăn mạnh mẽ nhưng ngừng ăn trong thời kỳ sinh sản. Nhiệt độ nước khi cá mở miệng để ăn là 4℃, khả năng ăn uống tăng lên khi nhiệt độ vượt quá 13℃, nhiệt độ tốt nhất để ăn là 18-22℃. Cá tầm Schrencki đã được thuần hóa có thể ăn thức ăn chế biến nhân tạo, trong đó hàm lượng protein rơi vào khoảng 37%-52%.
Cá tầm Schrencki ở sông Hắc Long Giang trưởng thành muộn, cá cái lần đầu đạt tuổi trưởng thành giới tính từ 9-13 tuổi, cá đực từ 6-7 tuổi. Chu trình sinh sản khá dài, thường kéo dài từ 2-4 năm. Các cá có chiều dài 108-116 cm và trọng lượng từ 6-8 kg đạt tuổi trưởng thành ở độ tuổi từ 10-14.
Quần thể sinh sản của cá tầm Schrencki ở sông Hắc Long Giang được chia thành hai loại: mùa xuân và mùa thu. Vào mùa xuân từ tháng 5-6, quần thể sinh sản ở sông Hắc Long Giang di chuyển đến các khu vực sinh sản và sinh sản trong năm đó, trong khi quần thể di cư mùa thu vào tháng 8-9 hàng năm di chuyển đến các khu sinh sản và hoạt động gần khu sinh sản, chờ đến mùa xuân năm sau để sinh sản. Nhiệt độ thích hợp để sinh sản là từ 17-20℃. Cá tầm Schrencki sinh sản ở các đoạn sông có nền cát sỏi, nước chảy ổn định và chiều sâu 2-3 mét, chúng đẻ trứng dính. Tỷ lệ giới tính của cá cái và cá đực khoảng 1:1.67. Cá cái có số trứng từ 30.000 đến 1.600.000, cao nhất có thể lên tới 2.800.000 trứng, đường kính trứng là từ 2,5-3,5 mm, mỗi gram trứng trưởng thành trung bình có 44 hạt. Trứng trưởng thành có hình oval, có màu xám xanh hoặc đen xanh, bóng và có độ đàn hồi. Trọng lượng trứng chiếm khoảng 10%-42% trọng lượng cơ thể, trung bình là 25%.
Tỷ lệ thụ tinh tự nhiên của cá tầm Schrencki khá thấp, trứng được thụ tinh sẽ nở sau khi đạt nhiệt độ tích lũy 1800-1980 độ giờ ở mức nước từ 17-21℃. Cá con mới nở do mang túi noãn lớn nên không thể cân bằng khi bơi, chúng bơi theo kiểu thẳng đứng không liên tục. Năm 1987, Viện nghiên cứu cá đặc sản tỉnh Hắc Long Giang đã thành công trong việc sinh sản nhân tạo cá tầm Schrencki và trong những năm tiếp theo đã khám phá và phát triển một bộ công nghệ khá toàn diện trong việc nuôi trồng và nhân giống cá tầm Schrencki, chuyển giao đến nhiều địa phương trên toàn quốc.
Tại khu vực sông Hắc Long Giang, cá tầm Schrencki có hai loại: màu nâu và màu xám. Loại nâu phát triển chậm hơn loại xám, cá cái ở tuổi 12 có chiều dài từ 96-117 cm và trọng lượng từ 3.5-5.6 kg, chủ yếu sinh sống ở hạ lưu sông Hắc Long Giang với số lượng và sản lượng khá thấp; trong khi loại xám ở cùng độ tuổi dài từ 125-142 cm, trọng lượng từ 8.3-16.4 kg, chủ yếu sống ở vùng nước lợ gần cửa sông và sống chủ yếu bằng động vật đáy. Quần thể cá cái xám vào mùa đông có 80% cơ quan sinh dục ở giai đoạn IV và bắt đầu di cư sinh sản vào mùa thu. Một số cá chưa đạt độ trưởng thành cũng di chuyển từ cửa sông vào dòng sông Hắc Long Giang, chờ đến khi trưởng thành sẽ quay lại khu vực hạ lưu.
Do bị khai thác quá mức, nguồn tài nguyên của chúng đã giảm mạnh.
Được đưa vào danh sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) năm 2010 – cực kỳ nguy cấp (CR).
Được liệt kê trong Phụ lục II của Công ước Washington (CITES) về động vật bảo vệ.
Được đưa vào danh sách động vật hoang dã được bảo vệ cấp quốc gia của Trung Quốc – cấp 2 (chỉ áp dụng cho quần thể tự nhiên).
Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn việc sử dụng động vật hoang dã làm thực phẩm.
Duy trì sự cân bằng sinh thái là trách nhiệm của mỗi người!
Phạm vi phân bố
Phân bố tại Trung Quốc và Liên bang Nga, có ở sông Hắc Long Giang, sông Ussuri, sông Songhua, v.v. Cá tầm Schrencki có tính hiền hòa, thích sống ở các đoạn sông có nền cát sỏi và bơi ở tầng đáy của nước. Vào mùa đông, cá trưởng thành thường trú đông ở vùng nước sâu và vẫn rất hoạt động trong mùa đông. Cá tầm Schrencki trưởng thành rất ít vào vùng nước nông, trong khi cá con sẽ vào các vùng nước nông để kiếm ăn sau khi dòng chảy được giải phóng vào mùa xuân.
Tính cách và hình thái
Cá tầm Schrencki có hình dáng thoi dài, bụng phẳng, cơ thể được bao bọc bởi năm hàng vảy, một hàng ở lưng, hai hàng ở hai bên hông và bụng, giữa các hàng có các hạt xương nhỏ. Các vảy trên cơ thể cá con có các chóp nhọn hướng về phía sau. Miệng nằm ở mặt bụng của đầu, có hình ống, môi có nếp gấp giống như cánh hoa, màng mang không liên kết, phía trước miệng có 2 đôi râu, nằm song song trên một đường thẳng. Hình dạng mũi rất đa dạng, có thể là hình tam giác sắc hoặc giống mũi lao, mặt bụng của mũi và phía trước của râu có một số mấu giống như u. Vì vậy, chúng có tên gọi địa phương là “Cá tầm bảy hạt”. Đuôi có hình dạng đặc trưng, với lá trên phát triển, trên vây đuôi có các vảy cứng hình nhọn. Màu sắc lưng là màu nâu đen hoặc màu xám nâu, trong khi cá nuôi có màu đen nhiều hơn, bụng có màu trắng bạc. Cá tầm Schrencki tương tự như cá tầm Siberia nhưng khác ở chỗ cá tầm Schrencki có các vây mang không có hình quạt bình thường. Cá tầm Schrencki có từ 11-17 vảy lưng, 32-47 vảy bên, 7-14 vảy bụng, 38-55 vây lưng, 21-30 vây hậu môn, và 35-38 vây mang. Các cá con và cá trưởng thành có chiều dài dưới 160 cm và trọng lượng dưới 25 kg đều có vảy bụng. Ngoại trừ một số trường hợp cá trưởng thành, phần lớn không có vảy bụng. Chiều dài đầu chiếm từ 17,3%-26,8% chiều dài tổng thể, chiều dài đuôi chiếm từ 3,1%-8,9% chiều dài tổng thể, chiều dài mũi chiếm từ 32,5%-52,2% chiều dài đầu. Cá tầm Schrencki có thể đạt chiều dài lên tới 290 cm và trọng lượng lên tới 160 kg. Năm 1989, trong quần thể cá tầm Schrencki được đánh bắt ở sông Hắc Long Giang, cá từ 9-18 tuổi chiếm 77,7% số lượng, cá dài từ 100-180 cm chiếm 87,1% số lượng, cá có trọng lượng từ 5-25 kg chiếm 81,2% số lượng. Cá tầm Schrencki từ 1-3 ngày tuổi thường có chiều dài từ 1,0-1,6 cm, trong khi cá 4-6 ngày tuổi có chiều dài từ 1,6-2,2 cm, cá 7-9 ngày tuổi có chiều dài từ 2,2-2,8 cm. Cá tầm Schrencki nuôi trong nhân tạo có cá lớn nhất nặng lên tới 782 gram, trung bình nặng 507 gram. Cá tầm Schrencki 11 tháng tuổi có cá lớn nhất nặng 1053 gram, trung bình nặng 606 gram, chiều dài lớn nhất đạt 69.9 cm, chiều dài trung bình 56.7 cm.