Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên Trung: Chim thuyền trưởng Thái Bình Dương
Tên khác: Chim nước Thái Bình Dương, Gavia pacifica, Thuyền trưởng Thái Bình Dương
Ngành: Chim nước
Họ: Gaviidae
Dữ liệu hình thể
Chiều dài: 60-68 cm
Cân nặng: 1.8-2.5 kg
Tuổi thọ: Chưa có tài liệu xác thực
Đặc điểm nổi bật
Cá thể hơi nhỏ hơn chim thuyền trưởng đen cổ, mỏ thẳng, nhỏ và ngắn hơn, cơ thể cũng mảnh mai hơn.
Giới thiệu chi tiết
Chim thuyền trưởng Thái Bình Dương (tên khoa học: Gavia pacifica) là loài chim nước lớn thuộc bộ Gaviiformes, họ Gaviidae. Chim thuyền trưởng Thái Bình Dương rất giống với chim thuyền trưởng đen cổ, nhiều học giả từ lâu đã coi nó là một phân loài của chim thuyền trưởng đen cổ. Nhưng nghiên cứu của Portenko (1939) và Bailey (1948) cho thấy vùng sinh sản của chim thuyền trưởng Thái Bình Dương và chim thuyền trưởng đen cổ ở vùng Anadal, Siberia phương Đông và Alaska chồng chéo nhau, và đã không thấy có kiểu hình trung gian nào trong thời gian dài, vì vậy đa số các học giả cho rằng đó là một loài độc lập.
Chim thuyền trưởng Thái Bình Dương hoạt động theo đôi hoặc theo nhóm nhỏ, đôi khi cũng có thể đơn độc. Chúng bơi và lặn rất giỏi, khi nổi trên mặt nước, phần cơ thể thường ngập dưới nước, đuôi gần mặt nước, có khi thậm chí toàn bộ cơ thể chìm dưới nước chỉ để lại đầu và cổ nổi trên mặt nước, liên tục lắc đầu nhìn xung quanh. Khi có nguy hiểm, chúng sẽ hoàn toàn chìm xuống nước để trốn thoát. Chúng cũng có khả năng bay và bay rất nhanh, nhưng việc cất cánh từ mặt nước khó khăn, thường thì không bay.
Chim thuyền trưởng Thái Bình Dương chủ yếu ăn cá, cũng ăn côn trùng và ấu trùng của chúng, động vật giáp xác và động vật thân mềm khác. Chúng tìm kiếm thức ăn bằng cách lặn, có khả năng lặn rất tốt, khi bơi cũng có thể đẩy nhanh tốc độ bằng cách dùng chân hoặc cánh. Côn trùng và cá nhỏ thường được nuốt dưới nước, trong khi thức ăn lớn thường được nuốt trên mặt nước. Chúng thường không phát ra âm thanh.
Vào mùa xuân từ cuối tháng 3 đến cuối tháng 4, chim thuyền trưởng Thái Bình Dương di cư về phía bắc từ nơi ngủ đông, đến vùng sinh sản vào cuối tháng 5. Vào mùa thu, từ tháng 9-10 bắt đầu di cư về phía nam, đến phía đông bờ biển Trung Quốc vào tháng 11-12. Trong quá trình di cư thường diễn ra theo đôi hoặc nhóm nhỏ, chúng vượt qua sông Nen và sông Ussuri, ngủ đông ở bán đảo Liêu Đông và vùng ven biển phía đông.
Thời kỳ sinh sản của chim thuyền trưởng Thái Bình Dương từ tháng 6 đến tháng 7. Chúng sinh sản ở Bắc Cực và vùng gần Bắc Cực, làm tổ ở bờ biển, cửa sông, ven sông và ven hồ. Tổ thường được làm từ các loại thực vật thủy sinh chết, rất đơn giản. Mỗi ổ đẻ từ 1-2 quả trứng, kích thước trứng từ 68.5-87 mm x 44-51 mm, trung bình 75.7 mm x 47 mm. Những con non lớn tuổi thường có vị trí ưu tiên trong tổ, vào thời kỳ thiếu thức ăn, chim trưởng thường cho ăn trước cho những con non lớn tuổi, trong khi những con non nhỏ có thể chết. Những con non sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào chim trưởng trong 5-7 tuần đầu, khoảng tuần thứ 8 sẽ bắt đầu rèn luyện khả năng bắt cá và sống độc lập. Chim trưởng có hành vi bảo vệ chim non, che chắn cho chim non bằng cánh để tránh bị kẻ thù tấn công. Trong thời kỳ sinh sản, chim đực thường có hành vi tấn công để giành chim cái, chúng thường tấn công bằng mỏ và có thể gây ra vết thương nghiêm trọng cho đối thủ.
Tại Trung Quốc, số lượng khá ít, thỉnh thoảng có thông tin ghi nhận. Đã từng ghi nhận vào ngày 1 tháng 12 năm 1983 tại bờ biển gần đảo Tiểu Bình, Đại Liên có một con mái. Năm 2006, Wetlands International ước tính số lượng quần thể chim thuyền trưởng Thái Bình Dương toàn cầu khoảng 930,000-1,600,000 con. Năm 2009, số lượng ước tính ở một số quốc gia: có từ 50-10,000 con chim thuyền trưởng Thái Bình Dương ngủ đông ở Nhật Bản; có từ 100-10,000 cá thể trưởng thành và 1,000-10,000 con trong suốt mùa đông tại Nga.
Vào mùa đông, mật độ quần thể chim thuyền trưởng Thái Bình Dương tương đối thấp, trong khi mật độ quần thể vào mùa sinh sản thì cao hơn. Nghiên cứu cho thấy một số hóa chất trong cơ thể chim thuyền trưởng Thái Bình Dương có thể xuất phát từ ô nhiễm trong hệ sinh thái của chúng, và những chất ô nhiễm đó cuối cùng đến cấp độ cao hơn của chuỗi thực phẩm trong cơ thể chim thuyền trưởng Thái Bình Dương. Chim thuyền trưởng Thái Bình Dương tương đối thích nghi tốt với các áp lực từ con người, nhưng vùng cư trú của chúng đang ngày càng bị thu hẹp do sự chiếm dụng của con người.
Đã được đưa vào “Danh sách đỏ các loài động thực vật nguy cấp của Trung Quốc” (2004), đánh giá cấp độ – Chưa được đánh giá (NA, Trung Quốc là vùng phân bố biên giới).
Đã được đưa vào “Danh sách đỏ các loài nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế” (IUCN) phiên bản 2018 – Loài không nguy cấp (LC).
Bảo vệ động vật hoang dã, không tiêu thụ thịt hoang dã.
Bảo vệ cân bằng sinh thái, trách nhiệm của mọi người!
Phạm vi phân bố
Chim thuyền trưởng Thái Bình Dương sinh sản ở vùng Đông Bắc Siberia, dọc theo dòng sông Indigirka, qua sông Kolyma, vùng Anadal, bán đảo Chukchi, qua đảo Saint Lawrence và quần đảo Aleutian đến Alaska và đảo Kodiak phía Nam, sau đó tiếp tục đi qua Canada đến Vịnh Hudson và đảo Baffin, rồi về phía Nam đến Vịnh James và bán đảo Ungava ở phía Nam Canada. Chúng ngủ đông ở những vùng biển phía Nam nơi sinh sản, ở Viễn Đông Nga, quần đảo Kuril, California, và bán đảo Liêu Đông cùng các vùng ven biển phía Đông Nam Trung Quốc. Phân bố tại Trung Quốc: Đông Bắc (sông Ussuri), bán đảo Liêu Đông (Lưu Tùng), Sơn Đông (Giáp Châu), Giang Tô (Liên Vân Cảng, Sơn Cheo). Phân bố nguyên sinh: Canada, Nhật Bản, Mexico, Hoa Kỳ. Phân bố di cư: Quần đảo Bermuda, Trung Quốc đại lục, Greenland, khu vực Hồng Kông. Phân bố chưa xác định: Triều Tiên, Hàn Quốc. Trong thời kỳ sinh sản, chim thuyền trưởng Thái Bình Dương cư trú ở các hồ, sông và các ao lớn trong vùng tundra Bắc Cực và ở vùng bờ rừng gần Bắc Cực, vào mùa đông thì thường cư trú trên mặt nước biển, hồ lớn và khu vực cửa sông.
Hình dạng và thói quen
Lông che đuôi và lông đuôi đều màu đen, có ánh kim loại xanh; lưng trên và vai có các đốm trắng hình chữ nhật dày đặc, sắp xếp theo hàng lối; lông che cánh có các đốm trắng nhỏ; cằm, cổ và phần trước cổ màu đen, có ánh tím, cổ có một dải không liên tục gồm những vân trắng ngắn; hai bên cổ có các sọc dọc đen trắng; ngực, bụng màu trắng, hai bên cơ thể màu đen, lông che cánh phía dưới màu trắng; lông nách màu trắng, đầu có vết lông màu nâu đen. Lông mùa đông từ trán, đỉnh đầu đến cổ sau màu nâu đen; cằm, cổ, dưới mắt và phần trước cổ màu trắng, có ranh giới rõ nét với cổ sau màu đen, tạo thành sự tương phản rõ ràng; lưng đến đuôi màu nâu đen, có vân ngang xám trắng không rõ; cổ có các dải ngang màu nâu đen. Phần dưới màu trắng, bên ngực có các sọc dọc đen nhỏ; hai bên màu nâu đen. Chim non có màu sắc tương tự như lông mùa đông, lưng và vai có lông mép sáng màu, đỉnh đầu và cổ sau có màu nhạt hơn, cổ không có dải màu nâu đen, phần còn lại giống với lông mùa đông của chim trưởng thành. Mống mắt màu nâu đỏ, mỏ màu đen, chân màu nâu đen. Kích thước: Cân nặng ♂ 2500 gram, ♀ 1800-2400 gram; chiều dài ♂ 613-680 mm, ♀ 600-610 mm; chiều dài mỏ ♂ 35-66 mm, ♀ 34-63 mm; chiều dài cánh ♂ 285-312 mm, ♀ 271-300 mm; chiều dài đuôi ♂ 55 mm, ♀ 54-56 mm; chiều dài xương đùi ♂ 76 mm, ♀ 76 mm. (Chú thích: ♂ là chim đực; ♀ là chim cái)