Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Cá rìu Dali Tên khác: Cá kiếm Dali, cá kiếm, cá cần Ngành lớp: Cá nhỏ Họ: Cá chép, họ cá rìu
Dữ liệu đặc trưng
Chiều dài: 13-25 cm Trọng lượng: 100-200g Tuổi thọ: Chưa có thông tin xác thực
Đặc điểm nổi bật
Có vai trò quan trọng trong ngành ngư nghiệp và du lịch
Giới thiệu chi tiết
Cá rìu Dali có tên khoa học là Schizothorax taliensis, thuộc họ cá chép, giống cá rìu.
Cá rìu Dali khác với các loài cá rìu khác, đây là loài thích nghi với môi trường nước tĩnh, thường hoạt động ở tầng nước giữa và trên của các khu vực nước rộng lớn trong hồ. Nó thích ăn thực phẩm động vật chủ yếu là động vật phù du, đặc biệt là động vật giáp xác, tiếp theo là các loài giáp xác thân khớp, côn trùng và một ít ấu trùng côn trùng, trứng côn trùng, thỉnh thoảng cũng ăn tảo xanh và tảo sợi.
Cá rìu Dali sinh sản từ tháng 4 đến tháng 7 hàng năm, chúng tập hợp lại và di chuyển lên các dòng suối hoặc khe suối từ hồ. Trong thời gian sinh sản, cá cái ít ăn hoặc thậm chí ngừng ăn, dựa vào lượng chất béo dự trữ trong cơ thể, chúng từ từ tiêu tốn và duy trì sự sống. Cá đẻ trứng trong dòng nước, trứng lắng xuống đáy nước, trứng thụ tinh dính vào sỏi, đá, nở ra trong khe hở của dòng nước.
Sau những năm 1970, do mực nước hồ Erhai giảm, nhiều kênh tưới vào hồ và các hang cá bị khô cạn; cùng với việc đưa vào các loài ngoại lai như cá bạc và cá lúa, đã xâm nhập vào một lượng lớn cá nhỏ không có giá trị kinh tế, chúng ăn trứng của cá rìu Dali, gây ra cạnh tranh về thức ăn, chiếm lĩnh vị trí sinh thái của cá rìu Dali; ngoài ra, do dân số gia tăng và tình trạng khai thác quá mức, tài nguyên cá rìu Dali đã giảm mạnh và gần như tuyệt chủng.
Với trách nhiệm xã hội và lịch sử trong việc bảo vệ quần thể cá rìu Dali tự nhiên, Công ty TNHH Nông nghiệp Công nghệ Thái Lạt, Yunnan đã đầu tư 1,85 triệu nhân dân tệ để chuyển nhượng 6,8 mẫu đất xung quanh Lý Tuyền Long Đàm (được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phê duyệt vào năm 2010 là khu bảo tồn giống cá rìu Dali cấp quốc gia). Họ đã xây dựng các cơ sở bảo trì cần thiết tại Lý Tuyền Long Đàm, xây dựng một trạm canh gác 80 mét vuông theo hệ thống giám sát, cử người chuyên trách để canh gác 24 giờ không cho phép mọi hành vi đánh bắt lén lút và cấm mọi người đến câu cá hoặc khai thác vùng lõi.
Vào ngày 29 tháng 11 năm 2016, đã ký kết thỏa thuận “Xây dựng Cơ sở Nghiên cứu Bảo tồn Sinh vật Thủy sản Hồ Erhai cùng Viện Nghiên cứu Động vật Côn Minh, Trung Quốc”. Thực hiện nghiên cứu sinh học, sinh thái, tiêu chí xác định giống cho các nguồn tài nguyên sinh vật quý hiếm hiện có như cá rìu Dali lớn, cá rìu Yunnan, cá rìu xám, cá rìu môi sáng, và các loài thủy sinh khác để cung cấp cơ sở lý luận cho việc bảo tồn tài nguyên sinh vật thủy sản cấp quốc gia.
Năm 2018, nhờ nỗ lực của đội nghiên cứu, 56 mẫu cá rìu Dali thu thập được đã được nuôi thành công toàn bộ, đạt tỷ lệ sống 100%; vào tháng 3 năm 2018, cá rìu Dali đã vượt qua công nghệ sinh sản nhân tạo tại cơ sở thí nghiệm của Viện Động vật Côn Minh, đưa vào sản xuất hàng loạt giống nhân tạo. Tất cả các công việc nghiên cứu xác định giống đều đạt được kết quả dự kiến và các tiêu chí xác định giống đang trong quá trình xây dựng.
Năm 1989, cá rìu Dali đã được đưa vào danh sách động vật bảo tồn cấp hai tại Trung Quốc.
Năm 2002, cá rìu Dali được đưa vào “Danh sách bảo vệ động, thực vật hoang dã thủy sinh tỉnh Vân Nam”.
Được đưa vào “Danh sách động vật hoang dã được bảo vệ trọng điểm của Trung Quốc” cấp hai (chỉ tính đến quần thể hoang dã).
Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn việc tiêu thụ thịt thú rừng.
Bảo vệ cân bằng sinh thái, mỗi người đều có trách nhiệm!
Phạm vi phân bố
Cá rìu Dali chỉ phân bố tại hồ Erhai và các chi lưu của nó cùng hệ thống sông Lan Châu tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
Tập quán hình thái
Cá rìu Dali có thân thon dài, hơi dẹt (chiều dài thông thường từ 130-250 mm, trọng lượng 100-200 g); đầu nhỏ và ngắn; mỏ ngắn, bằng chiều dài của đường kính mắt; miệng ở đầu, vết nứt miệng hơi nghiêng; môi trên và dưới nối tại góc miệng; môi dưới mỏng và hẹp, rãnh môi phía sau kết thúc tại chỗ hợp của hàm dưới, rìa hàm dưới không có chất bột; mắt lớn; có 2 cặp râu, râu hàm dài hơn râu mỏ một chút. Mặt lưng của cá rìu Dali có màu nâu nhạt hoặc vàng nâu, bụng có màu trắng xám hoặc hơi vàng; trong thời gian sinh sản, bụng của cá cái bị phình to đặc biệt, có màu đỏ nhạt, vây hậu mang dài và dày; cá đực có sự phát triển của sao lấp lánh ở mỏ.