Vịt u bướu

Thông tin cơ bản

Phân loại khoa học

Tên tiếng Việt: Vịt bướu Tên khác: Sarkidiornis melanotos, Comb Duck Ngành: Chim nước Họ: Anseriformes, Anatidae, Sarkidiornis

Dữ liệu đặc điểm

Chiều dài: 48-60 cm Cân nặng: 1.2-2.6 kg Tuổi thọ: Chưa có tài liệu xác thực

Đặc điểm nổi bật

Chim trống có một bướu thịt đen lớn ở gốc mỏ

Giới thiệu chi tiết

Vịt bướu (tên khoa học: Sarkidiornis melanotos) còn được gọi là Comb Duck, có hai phân loài.

Vịt bướu

Vịt bướu thường hoạt động theo các đàn lớn gồm hàng chục con, ngoài mùa sinh sản cũng tập trung thành hàng trăm con. Chúng bơi lội rất giỏi, nhanh nhẹn và có phần đuôi cao. Vịt bướu cũng bơi lặn tốt. Đi bộ và chạy trên mặt đất cũng rất khéo léo. Bay rất mạnh mẽ và nhanh chóng. Có khả năng sống trên cây. Tại Trung Quốc, chúng thỉnh thoảng được phát hiện tại Phúc Châu, thuộc loài chim nhầm lẫn. Thông thường không di cư.

Vịt bướu chủ yếu kiếm ăn vào ban ngày. Chúng tìm thức ăn bên bãi cỏ gần nước hoặc nơi nước cạn, vừa bơi vừa ăn. Thức ăn chủ yếu là cỏ, lá cây, lúa, hạt thực vật, cũng như các loại động vật như giun, côn trùng nước, ấu trùng côn trùng, cùng với động vật giáp xác, động vật thân mềm và các loại cá nhỏ.

Vịt bướu

Vịt bướu làm tổ trong các lỗ hổng tự nhiên trên các cây già gần nước hoặc giữa các nhánh cây lớn, cũng như tận dụng tổ cũ của các loài chim lớn khác, đôi khi chúng cũng làm tổ trong các khe hở ở các công trình cô lập. Ở nơi không có cây, chúng làm tổ trong kẽ đá và bụi cỏ cao. Thời gian sinh sản chủ yếu thay đổi theo mùa mưa, tại khu vực Đông Nam Á, thời gian sinh sản thường từ tháng 6 đến tháng 9. Chim trống khỏe mạnh đôi khi chiếm hữu hơn hai con chim mái. Mỗi lứa đẻ từ 8-12 trứng, trứng có màu trắng hoặc vàng nhạt, kích thước từ 56-67 mm x 42-45 mm. Chim mái ấp trứng, thời gian ấp khoảng 30 ngày.

Từ năm 1914, La Touche đã thu thập được hai mẫu chim trống tại Phúc Châu vào tháng 3 và tháng 6, nhưng trong vài thập kỷ qua chưa có báo cáo nào về việc thu thập hoặc nhìn thấy thêm. Vào năm 1990 và 1992, cuộc khảo sát về các loài chim nước mùa đông do Tổ chức Nghiên cứu Chim nước Quốc tế tổ chức chỉ phát hiện được 1500 con ở Nam Á và 56 con ở Đông Nam Á. Rõ ràng, vịt bướu chỉ tình cờ trôi dạt đến Trung Quốc. Số lượng quần thể vịt bướu ngoài châu Á vẫn chưa có tài liệu, ước tính có hơn 70.000 con thuộc phân loài chỉ định, và khoảng 80.000 con thuộc phân loài Nam Mỹ.

Được ghi danh vào danh sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) 2016 phiên bản 3.1 – Không có nguy cơ (LC).

Được đưa vào danh sách các động vật hoang dã có lợi hoặc có giá trị kinh tế, nghiên cứu khoa học quan trọng do Cục Lâm nghiệp Quốc gia Trung Quốc ban hành vào ngày 1 tháng 8 năm 2000 (mục 66).

Được ghi vào phụ lục II của Công ước về Buôn bán Quốc tế các Loài Động thực vật Hoang dã Nguy cấp (CITES) phiên bản 2019.

Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn việc sử dụng món ăn từ động vật hoang dã.

Bảo vệ cân bằng sinh thái là trách nhiệm của mỗi người!

Phạm vi phân bố

Vịt bướu phân bố tại Angola, Argentina, Aruba, Bangladesh, Bénin, Bolivia, Bonaire, Saint Eustatius và Saba, Botswana, Brazil, Burkina Faso, Burundi, Campuchia, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Trung Quốc, Colombia, Cộng hòa Dân chủ Congo, Bờ Biển Ngà, đảo Curaçao, Ecuador, Eritrea, Ethiopia, Guiana thuộc Pháp, Gabon, Gambia, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Guyana, Ấn Độ, Kenya, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Lesotho, Liberia, Madagascar, Malawi, Mali, Mauritania, Mozambique, Myanmar, Namibia, Nepal, Niger, Nigeria, Panama, Paraguay, Peru, Rwanda, Senegal, Sierra Leone, Saint Martin (Hà Lan), Somalia, Nam Phi, Nam Sudan, Sudan, Eswatini, Tanzania, Thái Lan, Togo, Uganda, Uruguay, Venezuela, Cộng hòa Bolivar, Việt Nam, Zambia, Zimbabwe. Có thể đã tuyệt chủng: Pakistan, Sri Lanka. Chim di cư: Nhật Bản, Oman, São Tomé và Príncipe, Trinidad và Tobago. Sống ở rừng rậm thông thoáng và vùng hồ, sông, ao và đầm lầy gần rừng.

Tập tính và hình thái

Vịt bướu trống có một bướu thịt lớn ở gốc mỏ, đầu và cổ màu trắng có đốm đen ánh kim tím, đặc biệt là từ đỉnh đầu đến cổ sau khá dày, tạo thành một dải màu đen sáng ánh kim tím. Phần lưng màu xám và gần đuôi có sọc đen, còn lại đều màu đen và có ánh xanh tím; lông cánh thứ hai có ánh xanh nước biển, lông vai có ánh nâu, lông đuôi màu nâu sẫm, lông phủ đuôi màu đen nâu có chút ánh xanh nước biển. Phần cổ và dưới cơ thể màu trắng, hai bên có màu trắng đính với màu xám nhạt, ngực có lông đen xỉn kết thành những đốm dạng vảy không liên tục; hai bên gốc cổ có một vòng cổ màu đen. Lông phủ đuôi phía dưới màu trắng, mỗi bên có một băng ngang đen kéo dài từ thắt lưng. Chim mái tương tự chim trống nhưng có kích thước nhỏ hơn, phần lưng không có ánh kim loại, phần dưới có đốm nâu, vùng ngực và hai bên lông phủ gần đuôi không có băng đen, gốc mỏ không có bướu. Chim con có đầu và lưng màu đen nâu, sườn, cổ và phần dưới màu vàng nâu, có vân đen. Mống mắt của chim trống màu đỏ thẫm, chim mái màu đen, mỏ màu đen, và chân màu chì.

Các câu hỏi thường gặp