Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Trung: Cá hồi Bắc cực
Tên khác:
Lớp: Cá nhỏ
Họ: Cá hồi
Dữ liệu hình thể
Chiều dài: 15-36 cm, có thể đạt 76 cm
Cân nặng: 1-2 kg, có thể đạt 3.8 kg
Tuổi thọ: 18-32 năm
Đặc điểm nổi bật
Vây lưng cao lớn, mép trên tròn và nhô lên, giống như cánh buồm, có nhiều đến 17-25 tia vây.
Giới thiệu chi tiết
Cá hồi Bắc cực (Tên khoa học: Thymallus arcticus) là một loài thuộc họ cá hồi.
Cá hồi Bắc cực có thể di chuyển hàng chục kilômét giữa các khu vực sinh sản, tìm kiếm và trú ẩn, theo mùa hoặc hàng năm. Một số cá hồi Bắc cực được biết đến đã di chuyển hơn 160 km trong một năm. Nhiều hành vi của cá hồi Bắc cực xoay quanh các chiến lược giúp tồn tại trong môi trường khắc nghiệt và không chắc chắn ở Bắc cực. Một trong những chiến lược này là di cư để tìm thực phẩm và sinh sản. Cá có thể sử dụng các dòng suối khác nhau để sinh sản, phát triển, ngủ đông và tìm kiếm thức ăn mùa hè, mặc dù một số cá có thể sống cả đời trong một khu vực của dòng suối hoặc hồ. Chúng hoạt động nhiều vào ban ngày.
Không có nghiên cứu về giao tiếp và cảm nhận của cá hồi Bắc cực, nhưng người ta cho rằng chúng có khả năng cảm nhận giống như các loài cá nước ngọt khác, bao gồm cảm nhận hóa học và hệ thống đường bên. Một hình thức cảm nhận là thông qua các cảm biến hóa học, phản ứng với kích thích hóa học trong nước và tạo ra vị giác và khứu giác. Một hình thức cảm nhận khác là hệ thống đường bên, phổ biến trong cá, giúp phát hiện chuyển động của những cá thể khác và con mồi qua sự thay đổi dòng điện và rung động do sinh vật khác gây ra. Chúng là những kẻ săn mồi dựa vào thị giác, phản ứng với các dấu hiệu thị giác để phát hiện và tấn công con mồi.
Cá hồi Bắc cực bao gồm nhiều loại sinh thái (hồ, hồ sông, dòng suối), với sự khác biệt về mô hình di cư và thời gian khác nhau trong các giai đoạn của vòng đời. Tuổi thọ có thể lên tới 10 năm. 3-4 năm đầu tiên cá bắt đầu sinh sản, 1-2 năm với loài sinh thái ngắn hạn ở suối. Cá đực trong mùa sinh sản có màu sắc tươi sáng hơn, phần lưng phía sau to hơn. Từ tháng 4 đến tháng 5, cá di cư lên thượng nguồn để tìm kiếm thức ăn và sinh sản. Vào mùa hè, chúng quay trở lại các dòng suối lớn hơn và hồ ở hạ nguồn, và vào mùa đông, di cư đến các khu vực sâu hơn. Sinh sản vào tháng 5 đến tháng 6 ở nhiệt độ 6-12°C. Sự phát triển phôi cần 10-14 ngày.
Cá hồi Bắc cực ăn động vật đáy, cá nhỏ, tảo và thực vật. Trong mùa hè ngắn ngủi ở Bắc Cực, cá hồi Bắc cực ăn các loại côn trùng thủy sinh nổi, chẳng hạn như ruồi đen, ruồi mayflies, ruồi đá và ruồi đá. Đôi khi, chúng cũng ăn các trứng của cá hồi rơi xuống nước, cá nhỏ hoặc trứng côn trùng trên cạn. Chúng có thể thỉnh thoảng ăn một con chuột đồng, chuột lông hoặc động vật có vú nhỏ khác. Những con cá hồi Bắc cực trẻ ăn động vật phù du và dần dần chuyển sang ăn ấu trùng côn trùng. Các giai đoạn cá giống và cá nhỏ ăn những động vật giáp xác nhỏ và các sinh vật nhỏ khác, trong đó 70% thức ăn bao gồm ấu trùng côn trùng, giun, động vật thân mềm và côn trùng trên cạn.
Khi mùa xuân đến gần, cá hồi Bắc cực sẽ di chuyển theo nhóm lên thượng nguồn đến khu vực sinh sản. Chúng là loài đẻ trứng như hầu hết các loài cá khác, bắt đầu sinh sản vào mùa xuân khi lớp băng bắt đầu tan. Tùy thuộc vào kích thước của cá cái, mỗi con có thể sinh ra từ 1.500 đến 30.000 quả trứng, mỗi quả trứng có đường kính khoảng 2.5 mm. Trứng chìm xuống đáy sông và bị mắc kẹt giữa sỏi và sỏi nhỏ. Chỉ khoảng 10% cá con nở từ trứng trưởng thành và có khả năng sinh sản.
Cá hồi Bắc cực sinh sản vào mùa xuân, nơi sản xuất trứng tại các khu vực nước nông của dòng sông có dòng chảy vừa phải và vật liệu nền đá cuội hoặc đá có cát mịn. Việc sinh sản trong hồ là hiếm. Cá hồi Bắc cực thay đổi hành vi của chúng để có khả năng sinh sản và sinh sản tốt hơn. Trong mùa giao phối, cá đực bảo vệ khu vực sinh sản của chúng trong suốt 7 ngày để chống lại các cá đực khác. Vào mùa này, cá cái không thể hiện hành vi kích thích. Trong quá trình giao phối, các cá đực khác cố gắng đánh bại các cá đực khác để giành lấy cá cái tương lai. Cá cái cũng có thể bơi qua. Cá đực làm duyên với cá cái bằng cách hiện ra vây lưng rực rỡ với nhiều màu sắc. Những chiếc vây này cũng được sử dụng để hỗ trợ cá cái dễ dàng tiếp nhận, giúp cho quá trình giao phối. Mặc dù chúng không đào tổ hình dạng tổ đỏ trong nền, nhưng hành vi giao phối sẽ làm xáo trộn vật liệu nền, đây là nơi trứng tạo thành tổ. Trứng sẽ ở lại đáy sông và hòa trộn với tinh dịch mà cá đực thả ra. Sau khi cá cái rời đi để tìm kiếm cá đực khác để giao phối, để trứng được vùi trong nền và tự sống sót. Tuy nhiên, do sự quấy rối của các loài cá khác hoặc cá cái xa rời cá đực, thực tế chỉ có dưới 50% số lần đẻ trứng hoàn thành thụ tinh. Cá hồi Bắc cực là loài giao phối hỗn hợp, với cá đực giao phối với nhiều cá cái và cá cái cũng giao phối với nhiều cá đực.
Cá hồi Bắc cực nở sau 2-3 tuần kể từ khi đẻ trứng, chiều dài nở khoảng 1.3 cm. Cá con ngay lập tức bơi đến khu vực bờ biển yên tĩnh và ấm áp, nơi chúng có thể phát triển đạt 5-10 cm vào cuối mùa hè. Cá nhỏ là phiên bản thu nhỏ của cá trưởng thành. Chúng tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng và trưởng thành trong vòng 3-4 năm. Sau đó, chúng dành nhiều năng lượng hơn cho việc sinh sản và tốc độ tăng trưởng bắt đầu chậm lại. Trong nhiều dòng suối và hồ, tốc độ tăng trưởng của loài này nhanh nhất trong số các loài cá ở Bắc Cực. Phôi và cá con của cá hồi Bắc cực tiếp xúc với nhiệt độ ngày càng lạnh trong quá trình phát triển. Trong các giai đoạn sống này, cá hồi Bắc cực thường tiếp xúc với vi khuẩn bệnh lý có sự khác biệt về nhiệt độ và giới tính, dẫn đến phản ứng hành vi và miễn dịch. Mặc dù điều này không trực tiếp ảnh hưởng đến quyết định giới tính cá thể, nhưng các nghiên cứu cho thấy cá hồi Bắc cực đực dường như có những hành vi tình dục đặc biệt mà cá hồi Bắc cực cái không có hoặc khả năng chịu đựng nhiệt độ ấm hơn.
Tuổi thọ của cá hồi Bắc cực thường là khoảng 18 năm. Tuy nhiên, đã có ghi nhận rằng một số cá thể ở Alaska có thể sống đến 32 tuổi. Phần lớn cái chết xảy ra ở trứng, cá con và giống cá hoặc ở các khu vực mà cá này bị đánh bắt quá mức.
Mặc dù cá hồi Bắc cực không được coi là loài nguy cấp, nhưng chúng rất nhạy cảm với ô nhiễm ở khu vực sinh sống, điều này có thể dẫn đến sự tuyệt chủng tại địa phương. Chúng rất dễ bị ảnh hưởng bởi đánh bắt quá mức, cạnh tranh, cầu vượt đường bộ, khai thác khoáng sản, nông nghiệp và các phương pháp lâm nghiệp phá hủy. Một cuộc khảo sát vào năm 2013 cho thấy số lượng quần thể của các loài cá hồi Bắc Mỹ đang giảm dần, loài này được xếp vào danh sách các loài “đáng quan tâm” có khả năng cần được bảo vệ theo Luật về các loài bị đe dọa.
Cá hồi Bắc cực được xếp vào danh sách “Sách đỏ về các loài nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới” (IUCN) phiên bản năm 2008, loại “không nguy cấp” (LC).
Cá hồi Bắc cực được xếp vào phụ lục II trong Công ước về thương mại quốc tế các loài động vật hoang dã, phiên bản năm 2019.
Cá hồi Bắc cực được liệt kê trong “Danh sách các loài động vật hoang dã được bảo vệ quan trọng của Trung Quốc” (5 tháng 2 năm 2021), loại II.
Bảo vệ động vật hoang dã, không sử dụng thịt hoang dã.
Giữ gìn cân bằng sinh thái, trách nhiệm của tất cả mọi người!
Phạm vi phân bố
Phân bố tại Canada, Trung Quốc, Kazakhstan, Triều Tiên, Mông Cổ, Nga và Hoa Kỳ. Sống trong một vùng địa lý rộng lớn, bao gồm Bắc cực và lưu vực Thái Bình Dương tại Canada, Alaska và Siberia. Lịch sử cho thấy chúng được tìm thấy ở toàn bộ khu vực Bắc cực, từ phía tây đến sông Kara ở Nga, phía đông đến bờ tây của vịnh Hudson ở Canada, và phía nam đến Michigan. Mặc dù ngoài Canada và Alaska, chúng không còn xuất hiện tự nhiên ở Bắc Mỹ, nhưng loài này đã được giới thiệu vào một số hồ ở vùng núi phía tây, như Arizona, California và thượng nguồn sông Missouri ở Montana. Cá hồi Bắc cực là loài ở đáy nước lạnh. Chúng sống trong các hồ và dòng sông nước ngọt lớn và lạnh (8-11°C) và trong sạch, ở những khu vực có độ cao cao. Các dòng suối và hồ lạnh phía trước núi, với độ oxy cao. Chúng sản sinh trong các dòng suối giữa núi, nơi dòng chảy mạnh mẽ, và đáy nông chủ yếu là đá cuội.
Tập tính hình thái
Cá hồi Bắc cực có chiều dài từ 15-36 cm, với trọng lượng trung bình từ 1-2 kg. Cụ thể ghi nhận cá lớn nhất dài khoảng 76 cm, nặng 3.8 kg. Thân cá dài và dẹt, giống hình thể cá hồi. Đầu ngắn, với các đốm đen nhỏ ở phía trên gần đầu cá. Mũi ngắn, mắt to, khe mang mỏng nhọn, miệng hơi xiên, hàm trên và dưới có chiều dài tương đương nhau, với những răng nhỏ như lông ở hàm trên và dưới. Vảy có kích thước trung bình. Về màu sắc có sự lưỡng hình giới tính, cá đực có nhiều vảy màu cam, xanh nhạt và xanh dương hơn cá cái, trong khi cá cái có nhiều vảy tối hơn. Vây đuôi sâu dạng chẻ. Vây lưng hẹp và có hình dạng nhám. Lưng cá thường tối hơn, màu tím đậm hoặc xanh đen đến xanh xám. Hai bên cá sáng hơn, mặt lưng có các vảy nhỏ, đa dạng màu sắc từ xám ánh cầu vồng đến xanh nhạt. Các mô hình chấm hoặc hình thoi cũng rất phổ biến. Vây lưng giống như cánh buồm, có thể có từ 17-25 tia vây, đôi khi còn cao hơn cả chiều rộng thân cá. Chúng thường có màu đen với một dải hẹp và sáng ở mép trên và các đốm từ màu cam đến xanh lá cây ở đáy vây. Vây bụng có thể có màu sắc rực rỡ, như dải hồng hoặc màu cam. Cá hồi Bắc cực sống trong các vùng nước trong sạch nhất thường có màu sáng hơn. Phần bụng cá nhỏ có màu trắng, nhưng hai bên cá có một số sọc ngang màu tối, dần dần biến mất khi phát triển. Hình dạng cơ thể của chúng thường dài hoặc hình thoi, với một phần lưng hẹp.