Bison châu Mỹ

Thông tin cơ bản

Phân loại khoa học

Tên tiếng Việt: Bison Bắc Mỹ
Tên khác: Bison Mỹ, Bison nước Mỹ
Hạng: Bộ guốc
Bộ và họ: Bộ guốc, Họ bò, Chi Bison

Dữ liệu đặc trưng

Chiều dài cơ thể: 2.1-3.5 mét
Khối lượng: 350-1000 kg
Tuổi thọ: 18-40 năm

Đặc điểm nổi bật

Là động vật quốc gia của Mỹ

Giới thiệu chi tiết

Bison Bắc Mỹ (tên khoa học: Bison bison) có hai phân loài.

Bison Bắc Mỹ

Bison Bắc Mỹ sinh sống chủ yếu tại các đồng bằng lớn ở Mỹ và Canada, từ hồ Slave ở phía Bắc Canada cho đến Mexico ở phía Nam, và từ phía Đông Oregon đến vùng Đại Tây Dương. Những đàn bison di chuyển trên các đồng bằng rộng lớn, chúng di cư về phía Nam vào mùa đông và quay trở lại phía Bắc vào mùa hè, di chuyển theo những con đường truyền thống được gọi là “dấu chân bison”.

Bison Bắc Mỹ và Bison châu Âu khá giống nhau về hình dạng, nhưng có những khác biệt trong tập tính. Bison châu Âu sống trong rừng và ăn lá non và cây bụi nhỏ, trong khi Bison Bắc Mỹ sống trên đồng cỏ và là động vật ăn cỏ.

Bison Bắc Mỹ sống theo bầy đàn, thường hay lăn lộn trong bùn để tắm. Chúng cũng chà sát thân mình lên đá lớn và thân cây để loại bỏ ký sinh trùng ngoại lai. Bison thường tìm thức ăn vào buổi sáng và buổi chiều, dành phần lớn thời gian còn lại để nghỉ ngơi. Khi gặp sói tấn công, chúng có thể chạy với tốc độ lên đến 60 km/h. Chúng ăn cỏ và các loại thực vật thân thảo khác, như các loại cây có hoa, lá cây gỗ và thậm chí cả địa y. Vào mùa đông, bison tìm thức ăn bằng cách đào bới tuyết dày để tìm thực vật phía dưới.

Bison Bắc Mỹ

Bison Bắc Mỹ là một trong những loài động vật nguy hiểm nhất trong các công viên quốc gia của Mỹ, đặc biệt là tại công viên quốc gia Yellowstone. Mặc dù chúng không phải là động vật ăn thịt, nhưng khi bị kích thích, chúng có thể tấn công con người. Bison di chuyển rất chậm chạp bình thường, nhưng khi chạy, chúng có thể dễ dàng vượt qua con người với tốc độ lên đến 56 km/h. Trong thời gian từ 1978 đến 1992, số người bị bison chấn thương hoặc giết chết trong công viên Yellowstone đã hơn gấp năm lần so với số người bị gấu gây thương tích.

Trong nhóm, những con bò đực hình thành một tập thể và bảo vệ các bò cái trong gia đình, đồng thời xua đuổi các bò đực khác đến thách thức. Mùa giao phối từ tháng 6 đến tháng 9, với thời gian cao điểm vào tháng 7 và tháng 8. Trong thời gian giao phối, cuộc chiến giữa hai con bò đực trưởng thành rất ấn tượng, thường chỉ để tranh giành quyền giao phối với bò cái. Chúng thường kêu lớn, lăn lộn trên mặt đất, và dùng đầu để thể hiện sức mạnh. Thường có một con bison sẽ nhường bước, nếu không, hai con sẽ lao vào nhau, đầu va chạm nhau tạo nên đám lông bay khắp nơi, rồi quanh quẩn, và đột ngột chạy về phía trước tìm cách đâm đối thủ bằng sừng. Thời gian mang thai của bò cái khoảng 9 tháng (270-285 ngày), mỗi lần chỉ sinh một con. Những con bê thường sinh vào mùa xuân năm sau, lúc mới sinh có màu nâu nhạt hoặc đỏ, trong vòng ba giờ chúng có thể đứng dậy và đi lại, và mẹ sẽ chăm sóc bê khoảng một năm. Thường thì 3 tuổi là độ tuổi trưởng thành, tuổi thọ của bison hoang dã là 18-22 năm, trong nuôi nhốt có thể lên đến 35-40 năm.

Bison châu Âu sau khi di cư đến Bắc Mỹ đã sinh sản nhanh chóng và lớn lên mạnh mẽ, khí hậu và môi trường ở Bắc Mỹ rất phù hợp cho sự phát triển của bison. Tuy nhiên, khi người châu Âu di cư đến Bắc Mỹ, bison đã phải chịu sự tàn sát kinh khủng. Khoảng mười triệu con bison đã bị giết. Đến năm 1903, chỉ còn 21 con bison hoang dã còn sống trên các đồng cỏ Bắc Mỹ. Năm 1905, Tổng thống Roosevelt đã ký một sắc luật để lần đầu tiên bảo vệ bison và một số động vật quý hiếm khác. Cuối cùng, bison đã quay trở lại đồng cỏ Bắc Mỹ và có thể thấy chúng trong nhiều công viên quốc gia.

Bison Bắc Mỹ

Kẻ thù tự nhiên của bison chủ yếu là chó sói xám và rắn đuôi chuông độc. Đặc biệt là những con bison non sẽ bị tấn công bởi bầy sói vào mùa đông, trong khi rắn đuôi chuông có thể cắn vào mắt cá chân của chúng, dẫn đến cái chết đôi khi cho những con bê.

Vào thế kỷ 19, thị trường, sinh kế và săn bắn giải trí gần như đã đưa bison đến bờ vực tuyệt chủng. Các biện pháp bảo tồn chỉ mang lại chút hồi phục cho bison hoang dã và trong chăn nuôi. Sản xuất thương mại bison đã dẫn đến sự phục hồi đáng kể về số lượng, nhưng vẫn chưa được quy định là động vật hoang dã theo nghĩa của danh sách đỏ. Các mối đe dọa hiện tại bao gồm: mất môi trường sống; thao tác gen để phát triển bison theo hình thức thương mại; tác động nhỏ đến quần thể bảo tồn; rất ít quần thể bison đối mặt với các yếu tố hạn chế tự nhiên; sự xâm nhập gen của bò; mất tính giao phối do lai giữa các phân loài bison; và các biện pháp giảm số lượng do quản lý dịch bệnh ở một số quần thể hoang dã. Tại Canada, Mỹ và Mexico, bison được phân loại là động vật hoang dã và gia súc, với tình trạng pháp lý khác nhau ở từng bang và tỉnh. Ở Canada, bốn tỉnh và hai lãnh thổ phân loại bison là động vật hoang dã và gia súc; trong khi ở Mỹ, bison được phân loại là gia súc theo luật pháp, chỉ có 10 bang chỉ định bison là động vật hoang dã trong toàn bộ hoặc một phần lãnh thổ của bang. Một mối đe dọa khác đối với quần thể này là việc tiêu diệt bison để ngăn ngừa sự lây lan của bệnh lao bò và bệnh brucellosis.

Bison Bắc Mỹ

Tổng thống thứ 44 của Mỹ là Barack Obama đã ký một dự luật vào ngày 9 tháng 5 năm 2016, chính thức xác định Bison Bắc Mỹ là động vật quốc gia của Mỹ. Sau khi trở thành động vật quốc gia, Bison Bắc Mỹ có vị thế ngang hàng với Quốc điểu Hoa Kỳ, đại bàng đầu trắng. Một trong những người soạn thảo dự luật, nghị sĩ William Lacy Clay, đã bình luận về vị thế của Bison Bắc Mỹ, nói rằng: “Không có loài bản địa nào khác có thể kể câu chuyện của Mỹ tốt hơn loài động vật cao quý này.”

Được đưa vào danh sách Đỏ của Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (IUCN) năm 2016 phiên bản 3.1 – Gần nguy cấp (NT).

Bảo vệ động vật hoang dã, tránh xa thịt thú.

Bảo vệ sự cân bằng sinh thái, là trách nhiệm của mọi người!

Phạm vi phân bố

Ở lại: Canada (tỉnh Alberta, Ontario, Manitoba, British Columbia, Saskatchewan, Northwest Territories và Yukon), Mỹ (Utah, Arizona, Montana, Idaho, Wyoming, South Dakota và California). Có khả năng tuyệt chủng: Mỹ (Texas). Tuyệt chủng: Mỹ (Maryland, Colorado, Wisconsin, West Virginia, Kansas, Missouri, Iowa, Nevada, Kentucky, Oklahoma, Virginia, North Carolina, Florida, New York, North Dakota, Georgia, Mississippi, Washington D.C., Delaware, Arkansas, Ohio, Pennsylvania, South Carolina, Alabama, Oregon, Tennessee, Massachusetts, Indiana, Washington, Nebraska, Illinois, Michigan, Louisiana, New Mexico và Minnesota). Được đưa trở lại: Mỹ (Alaska) và Mexico. Phạm vi phân bố ban đầu của bison trải dài từ phía Bắc Mexico đến Alaska. Bison đồng cỏ (B. b. bison) sinh sống từ phía Bắc Mexico đến trung tâm tỉnh Alberta, Canada. Bison rừng (B. b. athabascae) sống từ trung tâm tỉnh Alberta đến Alaska, Mỹ. Phân loài đồng cỏ sống trên đồng cỏ, hình thành các bầy lớn, đôi khi lên đến hàng ngàn con, di cư theo mùa. Vào mùa đông, chúng di chuyển về phía Nam để tìm kiếm những khu vực có thực phẩm dồi dào hơn. Vào mùa xuân, chúng di chuyển về phía Bắc. Phân loài rừng cư trú ở các khu rừng hàn đới của Bắc Mỹ và không di cư. Cao độ sinh tồn từ 180-2,750 mét.

Tập tính hình thái

Bison Bắc Mỹ dài từ 2.1-3.5 mét, cao vai từ 1.5-2.0 mét, trọng lượng từ 350-1000 kg ở người trưởng thành. Đầu và phần trước rất lớn, vai giống như một cái bướu cao, cổ ngắn và mạnh mẽ, đầu to với trán rộng. Cả bison đực và cái đều có sừng ngắn và cong, có thể dùng để chiến đấu và phòng thủ. Bison Bắc Mỹ có chút giống với bò sữa, vai phủ đầy lông thô dài, bao phủ toàn thân từ đầu, cổ, vai đến chân trước. Lông mùa đông có màu nâu đậm, mùa hè thì mỏng hơn và sáng hơn. Vào mùa xuân, lông mềm mọc ở phía sau và phía dưới sẽ rụng. Lông trên đầu, cổ và phần trước của bison Bắc Mỹ dài hơn và dày hơn so với bison châu Âu, thân hình thấp hơn và xương chậu nhỏ hơn, phần sau không phát triển như bison châu Âu. Nhìn tổng thể, cơ thể bison Bắc Mỹ to khỏe hơn bison châu Âu, và cả thân và chân không dài bằng bison châu Âu. Chúng có khứu giác tốt nhưng thị lực kém. Bison cái nhỏ hơn bison đực, bướu cũng nhỏ hơn, cổ hơi gầy, và sừng cũng mảnh hơn.

Câu hỏi thường gặp