Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Hải âu mặt xám
Tên tiếng Anh: Pterodroma gouldi, Grey-faced Petrel
Phân loại: Chim biển
Họ: Pterodroma, thuộc họ Hải âu
Dữ liệu thể trạng
Độ dài: 38-40 cm
Cân nặng: 385-680 g
Tuổi thọ: Chưa có tài liệu xác minh
Đặc điểm nổi bật
Là một loài chim biển có kích thước lớn, có lông màu tối, cánh dài và nhọn, cùng với đuôi hình chóp.
Giới thiệu chi tiết
Hải âu mặt xám (tên khoa học: Pterodroma gouldi), tên tiếng Anh: Grey-faced Petrel, không có phân loài. Hải âu mặt xám (P. gouldi) và hải âu cánh lớn (Pterodroma macroptera) đã được coi là hai phân loài của Pterodroma macroptera cho đến trước năm 1993, và đã được phân chia thành hai loài độc lập vào năm 2014.
Trong mùa sinh sản, hải âu mặt xám chủ yếu kiếm ăn ở vùng biển Tasman hoặc phía đông New Zealand, gần rìa thềm lục địa hoặc vùng biển sâu hơn, với khoảng cách có thể lên đến hàng nghìn km. Trong mùa lột lông mùa hè, chúng phân bố rộng rãi qua Biển Tasman đến bờ biển Úc, một số loài còn đến Biển San Hô.
Khi ở nơi sinh sản, hải âu mặt xám hoạt động vào ban đêm. Khác với các loài trong phân họ ở các hòn đảo phía nam, chúng rất hoạt động vào ban đêm trong cộng đồng, kêu gọi và tìm kiếm hang động, hoạt động và ngủ trên bờ. Vào những đêm ẩm ướt và tối tăm, hoạt động trên bờ trở nên khác biệt, nhưng chúng quay về dưới ánh trăng sáng vào những đêm có gió. Một trong những đặc điểm của loài này là cuộc săn mồi trên không kết hợp với những màn tán tỉnh trên không, và nơi sinh sản có thể trở nên rất ồn ào vào tháng 4-5 và tháng 8. Trên biển, chúng bay nhanh tới rìa thềm lục địa trước khi bắt đầu kiếm ăn, có thể bay xa trong quá trình tìm kiếm thức ăn. Khi bạn tình đang ấp trứng, những con chim này đã bay đến bờ biển phía đông của Úc. Sau mùa sinh sản, hải âu mặt xám chủ yếu phân tán đến vùng nước ấm hơn gần Biển Tasman phía bắc hoặc phía nam và phía đông Úc.
Hải âu mặt xám ăn uống khá đa dạng, thường ăn mực, và cũng ăn động vật giáp xác và cá. Chúng bắt mồi vào ban đêm, nhưng cũng thường dừng lại trên biển vào ban ngày và có thể bắt mồi. Chúng bắt giữ những con mực nhỏ trên mặt nước, nhưng những con mực lớn hơn có thể sẽ bị ăn khi những con vật chết trôi nổi trên mặt nước. Nghiên cứu về khả năng lặn của loài này cho thấy chúng chủ yếu kiếm ăn ở độ sâu 5 mét dưới mặt nước, nhưng đôi khi cũng có thể lặn sâu hơn, có khả năng xuống đến 20 mét. Mỗi lần săn mồi xảy ra vào ban đêm, có thể do hiện tượng phát quang sinh học phổ biến ở những loài mà chúng săn mồi, cho thấy đây là cách mà loài chim định vị con mồi. Chúng đôi khi xuất hiện sau các loài cá voi, và có thể tập hợp với các loài hải âu khác. Tiếng gọi chính trong chuyến bay là âm thanh whistle whi-her, wik-wik hoặc tiếng rên ồ ồ. Những âm thanh giống nhau thường được phát ra trên mặt đất hoặc trong các hang động.
Hải âu mặt xám sinh sản tại các hòn đảo phía bắc New Zealand, vùng huyện và một số mũi đất của lục địa. Những con chim này bắt đầu sinh sản vào giữa mùa đông, nhưng nhiều chim non đến mùa hè mới phát triển đủ lông cánh. Một số bộ lạc Māori vẫn thực hiện quyền đánh bắt hải âu trong mỗi năm từ giữa tháng 11 đến giữa tháng 12 để thu hoạch chim non. Sau khi loại bỏ nhiều kẻ thù tự nhiên tại các đảo sinh sản, hải âu mặt xám có thể phục hồi sự phát triển.
Mùa sinh sản của hải âu mặt xám diễn ra từ đầu tháng 3 đến tháng 1 năm sau, xây tổ trên những sườn đồi, sườn núi hay mặt đất phẳng trên các hòn đảo ven biển, nơi có thể đào những hang dài khoảng 1,5 mét. Vào giữa tháng 6 đến cuối tháng 7, chúng đẻ một quả trứng màu trắng kích thước 68×48 mm. Các phòng tổ được xếp đặt gọn gàng ở cuối những hang đào trong đất hoặc thực vật. Trứng nở vào tháng 8 hoặc tháng 9, thời gian ấp khoảng 55 ngày, chim non sẽ có lông vào mùa đông từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau, khi chúng khoảng 118 ngày tuổi. Loài này chỉ sinh sản một lần mỗi năm; rất hiếm có cặp nào bỏ qua mùa sinh sản. Cả chim đực và chim cái cùng nhau ấp trứng và chăm sóc chim non. Lông của chim non mọc dày vào cuối tháng 12. Những con chim chưa trưởng thành trở lại tổ vào tuổi 3, và có thể sinh sản sớm nhất vào tuổi 4, nhưng hầu hết sẽ trì hoãn sinh sản cho đến khi 8-10 tuổi.
Những kẻ săn mồi động vật xâm lấn là mối đe dọa chính đối với hải âu mặt xám. Mèo, chuột Polynesia, chuột nâu, chuột nhà, chồn hôi và lợn được cho là dẫn đến sự giảm tỷ lệ sinh sản do ăn cắp tổ, dẫn đến sự giảm số lượng quần thể. Mèo cũng sẽ săn con chim trưởng thành. Các hành động diệt trừ đã được thực hiện để giảm số lượng mèo và chuột Polynesia. Việc loại bỏ từng loài khỏi các hòn đảo sinh sản sẽ dẫn đến sự gia tăng số lượng hải âu mặt xám (Greene et al., 2015). Mèo giữ lại trên một hòn đảo sinh sản, và phân bố khắp lục địa bên ngoài khu vực rào chắn, trong khi chuột Polynesia chỉ ở một số khu vực trong phạm vi của nó. Chuột nâu và chuột nhà còn trú lại trên chín và mười bốn hòn đảo sinh sản tương ứng. Loài này vẫn được khai thác hợp pháp trên một số hòn đảo gần bờ vịnh Firth of Thames và vịnh Hauraki; tuy nhiên, đã có những nỗ lực để đảm bảo rằng việc thu hoạch hiện tại là bền vững (Greene et al., 2015).
Được đưa vào danh sách “Sách Đỏ các loài hữu nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN)” năm 2018 phiên bản 3.1 – Không nguy cấp (LC).
Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn các món ăn từ động vật hoang dã.
Bảo vệ sự cân bằng sinh thái là trách nhiệm của mỗi người!
Phạm vi phân bố
Phân bố tại Úc, New Zealand và đảo Norfolk. Sinh sản nhiều trong vùng biển phía bắc của Bắc Đảo New Zealand. Ngoài mùa sinh sản, chúng phân tán trong khu vực Tây Nam Thái Bình Dương hạ nhiệt, chủ yếu giữa vĩ độ 25-50 độ nam, nhưng cũng có một số chim có thể nhầm lẫn lạc vào vùng Nam Cực. Loài chim biển này có xu hướng sống xa bờ, phân bố rộng trên biển nhưng tổng thể thưa thớt. Chúng là một trong số ít loài chim biển hang động còn tồn tại trên lục địa New Zealand. Các nhóm nhỏ phân tán quanh bờ biển phía bắc của Bắc Đảo, chủ yếu phân bố tại các mũi đất và bán đảo ven biển. Việc sinh sản thường xảy ra ở độ cao dưới 400 mét. Tổ thường được đặt trong các hang dưới tán rừng lớn, nhưng cũng có thể có ở các bụi cỏ hoặc bụi rậm, đặc biệt là gần các vách đá cao trên mặt biển. Tổ ưa thích đất cát hoặc đất lỏng, gần như không có đá và rễ cây.
Tính cách hình thái
Hải âu mặt xám dài 38-40 cm, nặng 385-680 gram, sải cánh 97-100 cm. Là một loài chim biển có kích thước lớn, có lông màu tối, cánh dài và nhọn cùng với đuôi hình chóp. Trên biển, chúng bay nhanh và thanh thoát, sải cánh dài và hẹp. Loài này có cánh hẹp và dài, cùng với đuôi dài và nhọn. Toàn bộ cơ thể có màu nâu đen đồng đều, nhưng đôi khi có lông bị mòn màu nâu nhạt. Cổ và phần dưới cằm có màu xám hoặc vàng nhạt. Có một chiếc mỏ ngắn, mạnh mẽ, sâu và sắc nhọn màu đen, dài từ 33-40 mm. Mắt và chân đều có màu đen.