Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Chim gõ kiến lưng trắng
Tên khoa học: Dendrocopos leucotos, White-backed Woodpecker
Phân loại: Đặc điểm Chim
Thuộc Bộ: Piciformes, Họ: Picidae, Giống: Dendrocopos
Dữ liệu về thể chất
Chiều dài: 22-27 cm
Cân nặng: 85-117 g
Tuổi thọ: Chưa có tài liệu xác nhận
Đặc điểm nổi bật
Giới thiệu chi tiết
Chim gõ kiến lưng trắng có tên khoa học là Dendrocopos leucotos, tên tiếng Anh là White-backed Woodpecker, có 10 phân loài.
Chim gõ kiến lưng trắng thường hoạt động đơn lẻ hoặc theo cặp. Chỉ thấy 4-5 con tham gia vào nhóm gia đình trong thời gian ngắn sau khi chim non rời tổ. Chúng thường leo lên thân cây từ dưới lên trên để tìm kiếm thức ăn và sẽ không ngừng mổ cho đến khi hết côn trùng trong thân cây mục. Sau đó, chúng sẽ bay từ cây này sang cây khác, được biết đến với kiểu bay lượn. Đôi khi, chúng cũng tìm kiếm thức ăn trên các thân cây gãy, gốc cây hoặc đống đất. Vào mùa đông, khi thức ăn khan hiếm, phạm vi hoạt động của chúng mở rộng hơn, thậm chí cả những khu vực gần khu dân cư và trong những đống gỗ. Âm thanh phát ra là tiếng kêu nhẹ nhàng giống như tiếng báo động của chim sáo. Chúng sẽ mổ vào thân cây khoảng 1.7 giây trước khi tăng tốc, và khi kết thúc, âm thanh sẽ giảm dần.
Chim gõ kiến lưng trắng chủ yếu ăn các loài côn trùng như bọ cánh cứng và ấu trùng, các loại côn trùng bộ cánh cứng, côn trùng gõ đầu, kiến, bọ kén, bọ nhảy, rệp, sâu thông và trứng côn trùng. Chúng cũng ăn nhện, sâu và các động vật không xương sống nhỏ khác. Vào mùa thu và đông, chúng cũng ăn một số loại quả và hạt của thực vật như hạt sồi, hạt thông, và quả mận.
Mùa sinh sản của chim gõ kiến lưng trắng là từ tháng 4 đến tháng 6. Vào cuối tháng 3, chúng bắt đầu tìm bạn tình và biểu diễn hôn phối. Khi tìm kiếm bạn đời, chim đực và chim cái thường bay cùng nhau, đuổi nhau giữa tán cây, nhảy qua nhảy lại và phát ra tiếng kêu. Tiếng kêu của chúng nghe như gagaga-gagaga; tiếng kêu lặp đi lặp lại kéo dài trong một thời gian dài. Sau một lúc đuổi nhau, chim đực và chim cái đứng trên nhánh cây lớn, cách nhau từ vài cm đến vài chục cm, nhìn nhau, rồi lại phát ra tiếng gagaga, đổi vị trí và đứng yên như thế, nhìn nhau như vậy lặp lại nhiều lần cho đến khi giao phối. Khi giao phối, chim đực leo lên lưng chim cái, đầu và cổ những con chim duỗi ra, hai đuôi hướng về nhau và giao hợp trong khoảng 2-3 giây, sau đó cả hai chim tách ra, kêu nhìn nhau và làm khô đuôi. Khoảng 1-2 phút sau, chúng lại tiếp tục đuổi nhau và lặp lại quá trình trên để giao phối lần nữa. Sau đó, cả hai cùng bay vào sâu trong rừng. Sau khi ghép đôi, chúng thường hoạt động cùng nhau, tìm kiếm thức ăn mà không cách xa nhau.
Vào cuối tháng 4, chúng bắt đầu khoan lỗ làm tổ. Chim gõ kiến lưng trắng không bao giờ sử dụng tổ cũ. Mỗi năm, chúng đều phải khoan một lỗ mới. Đôi khi, sau khi khoan xong, chúng bỏ đi và khoan lỗ mới. Thường thì chúng chọn các cây gỗ mục, dễ khoan. Cả chim đực và chim cái cùng nhau khoan lỗ. Khoảng 4-10 ngày là hoàn thành. Lỗ tổ có hình tròn. Đường kính lỗ tổ là 5-7 cm. Đường kính bên trong là 10-13 cm, độ sâu 19-38 cm. Lỗ tổ cách mặt đất khoảng 4-15 m. Bên trong lỗ có trải dăm và vỏ cây. Mỗi lứa đẻ từ 3-6 trứng. Trứng màu trắng, trơn nhẵn, không có đốm. Kích thước 26-30×19-22 mm, trung bình 28-20.5 mm, nặng khoảng 6.9 gram. Chim đực và chim cái lần lượt ấp trứng. Thời gian ấp trứng kéo dài 16-17 ngày. Chim non phát triển chậm. Cả hai cha mẹ đều chăm sóc chim non, khoảng 23-24 ngày được cho ăn chim non có thể rời tổ.
Được đưa vào danh sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) năm 2012 – Không bị đe dọa (LC).
Được đưa vào danh sách động vật hoang dã có lợi cần bảo vệ hoặc có giá trị kinh tế và nghiên cứu khoa học quan trọng do Cục Lâm nghiệp Quốc gia Trung Quốc công bố vào ngày 1 tháng 8 năm 2000.
Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn việc sử dụng thịt hoang dã.
Bảo vệ cân bằng sinh thái, trách nhiệm của mọi người!
Phạm vi phân bố
Phân bố tại Albania, Armenia, Áo, Azerbaijan, Belarus, Bosnia và Herzegovina, Bulgaria, Trung Quốc, Croatia, Cộng hòa Séc, Estonia, Phần Lan, Pháp, Georgia, Đức, Hy Lạp, Hungary, Ý, Kazakhstan, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc, Latvia, Liechtenstein, Litva, Macedonia, Moldova, Mông Cổ, Montenegro, Na Uy, Ba Lan, Romania, Serbia, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraine. Làm tổ di trú: Bỉ, Hà Lan. Tại Trung Quốc không phân bố liên tiếp nhưng trong khu vực phân bố tương đối phổ biến. Phân loài chỉ định phân bố ở vùng Đông Bắc Trung Quốc, phía bắc Tân Cương, phía đông nam tỉnh Hà Bắc và Nội Mông; Phân loài Phúc Kiến ở phía tây bắc tỉnh Phúc Kiến và phía bắc tỉnh Giang Tây; Phân loài Tứ Xuyên ở phía nam tỉnh Thiểm Tây đến giữa tỉnh Tứ Xuyên; Phân loài Đài Loan ở Đài Loan. Chủ yếu sống ở độ cao từ 1200 đến 2000 mét trong rừng lá rộng và rừng hỗn hợp, rừng lá kim trên núi, rừng hỗn hợp lá kim và lá rộng. Đặc biệt, thường xuất hiện trong rừng hỗn hợp lá kim và lá rộng nguyên sinh. Chúng cũng hoạt động và tìm kiếm thức ăn ở các khu vực rừng thứ sinh và rừng thưa.
Thói quen và hình dạng
Chim gõ kiến lưng trắng có mỏ và lông mũi đen với những đốm nâu trắng. Trán có màu nâu trắng, đỉnh đầu và sau gáy có màu đỏ tươi; vùng má, bên má và lông tai có màu nâu trắng. Nửa trên mắt có khu vực đen, nửa dưới trắng; họa tiết đen ở vùng má kéo dài ra phía cổ. Phía sau cổ và phía trên lưng có màu đen, phía dưới lưng và thân có màu trắng, lông đuôi trên có màu đen. Lông đuôi giữa có màu đen, lông đuôi bên ngoài có màu trắng với các đốm đen. Cánh có màu đen, với các đốm trắng ở đầu; lông nhỏ trên cánh, lông bay có màu đen và có các đốm trắng ở cả hai bên; lông dưới cằm và cổ có màu trắng, hai bên trên ngực có màu đen, cổ và ngực có màu xám trắng với họa tiết lông đen; bụng và hai bên hông có màu tự nhiên với họa tiết lông đen. Phía dưới bụng và lông đuôi có màu đỏ tươi. Lông nách và lông dưới cánh có màu trắng. Chim cái có đỉnh đầu màu đen, không có màu đỏ, các phần còn lại giống như chim đực. Phân loài Tứ Xuyên có màu bụng vàng nhạt; phân loài Đài Loan có bụng gần màu nâu. Khác với chim gõ kiến ba ngón, loài này không có chóp đầu màu vàng, cánh có đốm rõ rệt. Chim non có đỉnh đầu màu xám chì, viền đỏ nhạt, lưng màu xám trắng, lông dưới cằm, cổ và cổ trên ngực màu nâu trắng, bụng, bụng và hai bên có màu xám bẩn với các đốm đen. Các bộ phận khác giống như chim trưởng thành. Mống mắt màu đỏ, mỏ trên màu nâu đen, mỏ dưới đen xám, chân màu nâu đen. Kích thước: trọng lượng đực từ 85-117 gram, cái từ 86-113 gram; chiều dài đực từ 237-274 mm, cái từ 222-276 mm; chiều dài mỏ đực 30-37 mm, cái 30-37 mm; chiều dài cánh đực 135-147 mm, cái 156-150 mm; chiều dài đuôi đực 87-109 mm, cái 95-116 mm; chiều dài chân đực 23-28 mm, cái 22-32 mm. (Chú thích: ♂ là đực; ♀ là cái)