Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Trung: Cá voi mỏ Arnoux
Tên khác: Cá voi mỏ Arnoux, cá voi bốn răng phía Nam, cá voi mỏ phía Nam, cá voi mỏ New Zealand, cá voi mỏ khổng lồ phía Nam, cá voi chuột phía Nam
Thức ăn: Cá voi mỏ
Cấp độ: Lớp động vật có vú
Họ: Cá voi mỏ
Dữ liệu đặc điểm
Chiều dài: Khoảng 12 mét
Cân nặng: 7-10 tấn
Tuổi thọ: Chưa có tài liệu xác minh
Đặc điểm nổi bật
Thời gian lặn thường từ 15 đến 25 phút, thường lặn sâu tới 1000 mét.
Giới thiệu chi tiết
Cá voi mỏ Arnoux tên khoa học là Arnoux’s Beaked Whale, thường dễ bị hoảng sợ và khó quan sát, rất khó nhận biết trên mặt nước. Chúng có vẻ có tính cộng đồng, thường được quan sát với nhau trong những nhóm gần nhau, số lượng thường không quá 10 con, nhưng đôi khi có thể lên đến 50 con. Gần Nam Cực, các nhà nghiên cứu từng theo dõi một nhóm khoảng 80 con trong nhiều giờ, cuối cùng chúng phân tán thành các nhóm nhỏ từ 8 đến 15 con và biến mất giữa các tảng băng. Thời gian lặn đã được ghi nhận thường từ 15 đến 25 phút, thường lặn sâu tới 1000 mét. Đã quan sát một nhóm cá voi lặn hơn 1 giờ và trong thời gian này, chúng đã bơi hơn 6 km. Khi ở trên mặt nước, chúng bơi chậm, sau khoảng 15 lần thở lại lặn xuống; khí thải thấp (cao khoảng 2 mét), hơi nghiêng về phía trước, có hình dạng giống như nhánh cây. Chế độ ăn của cá voi mỏ Arnoux tương tự như cá voi mỏ Beaked, bao gồm mực, bạch tuộc và cá sâu. Thông tin về cá voi mỏ Arnoux rất hạn chế và số lượng của chúng khá hiếm.
Vì rất giống với cá voi mỏ Beaked, nên người ta cho rằng chúng là cùng một loại. Tuy nhiên, hai loài này phân bố địa lý biệt lập và cá voi mỏ Arnoux nhỏ hơn. Quan sát từ những cá thể sống cho thấy, cá voi mỏ Arnoux có thể dài tới 12 mét; nhưng tất cả các mẫu vật chết được điều tra đều không đạt tới chiều dài này. Rất dễ nhầm lẫn với cá voi mỏ phía Nam, cả hai gần như không thể phân biệt trên biển; tuy nhiên, có thể chú ý rằng mỏ của cá voi mỏ Arnoux dài hơn và trán thì không tròn. Răng của cả hai giới đều lộ ra, điều này là rất hiếm trong loài cá voi mỏ; răng của cá voi già có thể bị mài mòn đến nướu. Màu sắc cơ thể mặc dù tối nhưng trong nước lại xuất hiện màu nâu nhạt, thậm chí màu cam; đây là kết quả của vi sinh vật biển – tảo silic bao phủ toàn thân.
Vì các nhà khoa học chưa nghiên cứu nhiều về loài này, thông tin về sinh sản của chúng gần như hoàn toàn không rõ ràng, do các đặc tính liên quan giống như cá voi mỏ Beaked, nên người ta đoán thời gian mang thai cũng khoảng 17 tháng.
Tần suất xuất hiện của cá voi mỏ Arnoux hơi thấp hơn so với cá voi mỏ phía Nam cùng phân bố ở bán cầu Nam, nhưng không có số liệu thống kê rõ ràng. Chúng chưa bao giờ bị con người săn bắt và dường như không có nguy cơ sinh tồn cấp bách.
Bảo vệ động vật hoang dã, tránh thực phẩm hoang dã.
Duy trì cân bằng sinh thái, mọi người đều có trách nhiệm!
Phạm vi phân bố
Cá voi mỏ Arnoux phân bố chủ yếu ở vùng cực Nam ở bán cầu Nam, từ rìa băng Nam Cực (khoảng vĩ độ 78° Nam) về phía Bắc tới khoảng vĩ độ 34° Nam, xuất hiện ở Nam Thái Bình Dương, Nam Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương phía Nam, tuy nhiên, hầu hết các ghi nhận quan sát đều diễn ra ở phía Nam vĩ độ 40°, thường được tìm thấy gần Biển Tasman, ở New Zealand đã từng có ghi nhận cá voi bị mắc cạn tập thể. Đôi khi chúng bị mắc kẹt trong lớp băng và phải đi qua mùa đông ở Nam Cực. Phân bố chủ yếu ở các vùng nước lạnh ôn đới và cực gần Nam Cực; khoảng dưới 34° Nam là nơi xảy ra mắc cạn gần nhất; có ghi nhận cá voi đã xuất hiện ở bán đảo Nam Cực tại 64° Nam. Phần lớn các ghi nhận mắc cạn xảy ra gần New Zealand, eo biển Cook dường như có số lượng phân bố khá đông, đặc biệt trong mùa xuân và mùa hè. Hầu hết các quan sát đều diễn ra ở Biển Tasman và gần dãy núi Albertrose ở Nam Thái Bình Dương. Bản đồ biểu thị các khu vực quan sát chính, nhưng cũng biết rằng Nam Georgia ở Nam Đại Tây Dương và Nam Phi cũng đã từng xuất hiện. Chúng thích sinh sống ở những vỉa đá sâu, những ngọn núi ngầm và các vùng biển đáy khác dốc đứng. Đã biết rằng cá voi mỏ Arnoux sẽ vào các khu vực băng; vào mùa hè rất gần rìa băng, nhưng vào mùa đông có thể di cư đến nơi khác.
Hành vi và hình thái
Cá voi mỏ Arnoux có hình dáng tương tự như cá voi mỏ Beaked nhưng kích thước hơi nhỏ hơn. Thân hình dài và gần như hình ống, vây lưng nhỏ, nằm ở phía sau giữa lưng. Đỉnh của vây lưng thường tròn và mép sau hình lưỡi liềm. Đầu vây ngực tròn. Cái trán rõ ràng có hình dạng cầu, độ nghiêng đến gốc mỏ khá nhẹ. Đường cong của mỏ dài và cuối mút cong lên. Hàm dưới dài hơn hàm trên, vì vậy hai chiếc răng hình tam giác nằm ở đầu mỏ vẫn lộ ra ngay cả khi miệng đóng lại. Ở phía sau của răng lớn có hai chiếc răng nhỏ nhưng được ẩn trong miệng. Cả cá voi đực và cái đều có răng lộ ra. Toàn bộ cơ thể gần như có màu xám đá phiến đến nâu nhạt, vùng đầu có màu sáng hơn. Khi càng lớn tuổi, trên trán, lưng và hai bên cơ thể sẽ xuất hiện nhiều vết sẹo trắng dài, cá già thường có vết sẹo ở bụng. Những vết sẹo này tạo thành họa tiết giống như đá cẩm thạch trên tổng thể. Khi cá voi mỏ Arnoux đóng miệng vẫn có thể thấy được răng trước, lỗ thở hình trán hình tròn hướng về phía trước, vết sẹo trắng rộng hơn, đặc biệt rõ ở lưng (vết sẹo trên cá voi con ít hơn), lưng rộng và phẳng, vây lưng hình tam giác hoặc lưỡi liềm, đầu tròn, so với chiều dài cơ thể, vây lưng rất nhỏ, đuôi rộng, vây ngực ngắn và rộng, mép trước và sau của vây ngực gần như song song, bụng có đốm màu xám nhạt hoặc trắng, màu sắc cơ thể thường là đen xanh hoặc xám sẫm (trẻ con thường có màu xám chuột), ngoại hình to khỏe, dạng thuôn. Răng trước của cá voi già đã mài mòn đến nướu, vết sẹo phân bố rộng rãi, màu sắc từ đầu đến vây lưng sẽ nhạt hơn hoặc có màu trắng xỉn, đuôi thỉnh thoảng nâng lên trước khi lặn sâu, mép sau hơi lõm vào hoặc gần như phẳng, một số cá thể có lỗ nhỏ ở giữa đuôi. Khoảng cách giữa hai chiếc răng có thể lên tới 20 cm, hàm còn có cặp răng thứ hai ẩn mình, chỉ mọc ra khi đến tuổi già.