Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Chao chằng châu Phi Tên khoa học: Apaloderma vittatum, Bar-tailed Trogon Ngành: Chim Bộ: Trogoniformes Họ: Trogonidae Chi: Apaloderma
Dữ liệu đặc điểm
Chiều dài: Khoảng 28 cm Cân nặng: Chưa có tư liệu xác minh Tuổi thọ: Chưa có tư liệu xác minh
Đặc điểm nổi bật
Đuôi dài và rộng, đáy đuôi có hoa văn đen trắng.
Giới thiệu chi tiết
Chao chằng châu Phi (tên khoa học: Apaloderma vittatum) là một loài chim nhỏ thuộc họ Trogon.
Chao chằng châu Phi sống trên cây, thường hoạt động đơn độc hoặc theo cặp, ít khi tụ tập thành nhóm, rất khéo leo nhưng không giỏi đi bộ hay nhảy; khả năng bay yếu, mặc dù có thể bay nhanh nhưng không bay xa, đường bay thường dao động, thường hiện diện ở tầng giữa và trên của cây, nhưng cũng thường xuyên hoạt động trên mặt đất. Khi bay giữa rừng, chúng thường bay lên xuống nhanh chóng, nhưng khoảng cách bay không xa. Tính tình nhút nhát và cô độc, thích môi trường yên tĩnh, ít phát ra tiếng kêu, thường ẩn mình ở những nơi tối tăm khi nghỉ ngơi. Chúng có thể bắt mồi cả trên không lẫn mặt đất, chủ yếu là châu chấu, bọ ngựa, bướm đêm, bướm, ong và các loại côn trùng khác cùng với ấu trùng của chúng, đôi khi cũng ăn ốc sên và các động vật không xương sống nhỏ cùng trái cây, quả mọng và hạt. Tiếng kêu của chúng đơn điệu và thường không phát ra âm thanh.
Chao chằng châu Phi sinh sản trong các hang tự nhiên trên cây đã mục hoặc tổ kiến, tổ ong, không làm tổ. Mỗi lứa đẻ từ 2 – 4 trứng. Chim non thuộc dạng trưởng thành muộn. Việc ấp trứng và nuôi con do cả bố và mẹ cùng đảm nhận.
Được đưa vào danh sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) năm 2012 với tình trạng ít nguy cấp (LC).
Bảo vệ động vật hoang dã, ngăn chặn việc tiêu thụ thịt động vật hoang dã.
Bảo vệ sự cân bằng sinh thái là trách nhiệm của mọi người!
Phạm vi phân bố
Phân bố tại Angola, Burundi, Cameroon, Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Guinea Xích đạo, Kenya, Malawi, Mozambique, Nigeria, Rwanda, Cộng hòa Tanzania, Uganda, Zambia. Chúng sống trong rừng, thích ở độ cao khoảng 1600 mét, cao hơn so với nơi sống của loài chao chằng và cũng có địa điểm chồng lấn.
Tập tính hình thái
Chao chằng có chiều dài khoảng 28 cm. Mỏ và chân có màu vàng, đuôi dài và rộng, đáy đuôi có hoa văn đen trắng nhỏ. Chim đực có đầu màu xanh đen với ánh đồng đỏ. Dưới mắt có hai mảng nhỏ màu vàng hoặc cam không có lông, trên mắt có đốm màu vàng hoặc xám. Phần ngực trên có màu tím đến xanh lam, phần còn lại của cơ thể là màu đỏ. Lưng màu xanh lá cây, mặt trên của đuôi có màu xanh đen hoặc tím đen. Chim cái có đầu màu nâu, họng và ngực màu quế, các phần còn lại giống như chim đực. Chim non có hình dạng giống chim cái, nhưng bụng màu trắng, cánh có các đốm màu sáng. Kích thước tương đối nhỏ so với các loài chim không thuộc bộ sẻ, có màu sắc rực rỡ, lông dày, mềm mại, các lông phụ phát triển tốt; tuyến mỡ ở đuôi lộ ra; vùng lông lưng rõ ràng từ cổ đến tuyến mỡ nhưng không phân nhánh; chim đực và chim cái có màu sắc khác nhau. Mỏ rộng, ngắn, đầu mỏ có móc và răng cưa, chân trước và lỗ mũi bị lông che; đầu lớn, cổ ngắn; cánh ngắn tròn, có 10 lông vũ chính, không có lông vũ trung gian; đuôi dài và rộng, có hình hình phẳng hoặc lồi, đuôi có 12 lông; chân ngắn yếu, bộ phận chân có lông, ngón chân có dạng khác nhau, với ngón thứ 3 và 4 hướng về trước và liên kết với nhau một phần, ngón thứ 1 và 2 hướng về sau và cũng liên kết ở gốc. Xương đầu thuộc loại nứt khẩu, có ụ cánh; mép phía sau của xương ức có 4 khía, mấu quai dài và hai đầu chia nhánh; xương hàm tiếp xúc với xương mỏ. Cơ dài cho ngón chân cỡ lớn được nối với ngón thứ 1 và 2; cơ cong cho ngón chân thứ 3 và 4, hai cơ này có gân liên kết; cơ ngồi không có. Túi mù có nhưng ngắn.