Thông tin cơ bản
Phân loại khoa học
Tên tiếng Việt: Antilope đen Tên khác: Bộ: Guốc Nhóm: Guốc chẵn, họ Bò, giống Hippotragus
Dữ liệu thể trạng
Chiều dài cơ thể: 190-255 cm Cân nặng: 190-270 kg Tuổi thọ: Khoảng 15 năm
Đặc điểm nổi bật
Là động vật quốc gia của Zimbabwe, trong đó phân loài Antilope đen lớn là động vật quốc gia của Angola.
Giới thiệu chi tiết
Antilope đen (tên khoa học: Hippotragus niger) có tên tiếng Anh là Sable Antelope, có tổng cộng 5 phân loài.
Quần thể Antilope đen thường tập trung từ 30 đến 75 con cái và con non trong những môi trường sống tốt. Quần thể được dẫn dắt bởi 5 con đực. Trong mùa mưa, quần thể có thể chia thành nhiều nhóm nhỏ; trong khi mùa khô quần thể lại kết hợp thành nhóm lớn. Mỗi ngày, chúng di chuyển khoảng 1,2 km. Trong mùa khô, quần thể Antilope đen thường ngồi lại trên một đồng cỏ trong hơn một tuần, chỉ rời đi một thời gian để kiếm nước hoặc tránh nắng, sau đó lại quay trở lại đồng cỏ đó. Tuy nhiên, về cơ bản, chúng có xu hướng di chuyển liên tục. Con cái lớn tuổi có địa vị trong quần thể cao hơn. Các con đực sống trong quần thể con cái cho đến khi chúng ba tuổi, sau đó dời đi và sống trong nhóm con đực. Khi đạt năm tuổi và có đặc điểm thứ cấp phát triển, con đực sẽ tìm kiếm lãnh thổ, nếu không có lãnh thổ, chúng sống độc lập. Những con đực đứng đầu thường tuần tra và đánh dấu lãnh thổ của mình.
Antilope đen là động vật ăn cỏ. Chúng chủ yếu ăn cỏ và lá cây.
Tại Niger, Antilope đen chỉ có một mùa sinh sản trong năm, từ tháng 5 đến tháng 7, với tháng 6 là thời điểm giao phối cao điểm. Thời gian mang thai kéo dài từ 8 đến 9 tháng, và con non thường được sinh ra vào cuối mùa mưa, khi cỏ phát triển đủ để che phủ cho con non. Sau khi sinh, con cái sẽ giữ bí mật trong tuần đầu tiên. Sau một tuần, chúng sẽ quay trở lại nhóm ban đầu với con non. Quá trình cai sữa thường xảy ra sáu tháng sau khi sinh, thường trùng với thời điểm kết thúc mùa khô, khi cỏ xanh tươi và giàu dinh dưỡng.
Con cái đạt tuổi trưởng thành khi 2,5 tuổi, trong khi con đực cần đạt 3 tuổi mới trưởng thành, nhưng con đực trưởng thành vẫn chưa thể giao phối. Chúng cần có vị trí lãnh đạo mới có quyền giao phối với con cái. Con cái sinh con sẽ tạo thành một nhóm để chăm sóc và bảo vệ con non, đặc biệt trong ba tuần đầu sau khi sinh. Sau ba tuần, con non bắt đầu chơi với các con non khác, chỉ trở lại nhóm mẹ khi đến giờ ăn. Khi con non đạt 6-8 tháng tuổi, mối liên hệ giữa mẹ và con trở nên ít hơn, chúng thường sống cùng các con non khác, chỉ thỉnh thoảng quay lại nhóm mẹ.
Antilope đen có sự phân bố rộng rãi, không nằm gần chuẩn mực tuyệt chủng của loài (diện tích phân bố hoặc phạm vi di chuyển nhỏ hơn 20.000 km vuông, chất lượng môi trường sống, quy mô quần thể, phân mảnh khu vực phân bố), xu hướng số lượng quần thể ổn định, vì vậy chúng được đánh giá là không có nguy cơ tuyệt chủng. Tuy nhiên, phân loài Antilope đen lớn do tình trạng môi trường sống ở Angola trong hơn 30 năm nội chiến, hiện nay tổng số quần thể của nó không vượt quá 400 cá thể, là loài cực kỳ nguy cấp trên thế giới.
Được liệt kê trong danh sách đỏ các loài nguy cấp của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN), phiên bản 3.1 năm 2008 – Không nguy cấp (LC).
Bảo vệ động vật hoang dã, không tiêu thụ thịt thú rừng.
Bảo vệ cân bằng sinh thái, mọi người cùng có trách nhiệm!
Phân bố
Nơi xuất xứ: Angola, Botswana, Cộng hòa Dân chủ Congo, Kenya, Malawi, Mozambique, Namibia, Nam Phi, Cộng hòa thống nhất Tanzania, Zambia, Zimbabwe. Được đưa vào: Eswatini. Thích nghi với rừng bụi nhiệt đới và đồng cỏ nhiệt đới. Sống trong rừng trên đồng cỏ lớn, rất thích nghi với cuộc sống ở những vùng khô hạn, có khả năng thích nghi rất cao với sa mạc khô.
Tập tính và hình thái
Antilope đen có chiều dài cơ thể từ 190-255 cm, chiều cao vai từ 117-143 cm, chiều dài đuôi từ 40-75 cm; cân nặng từ 190–270 kg. Con cái có kích thước nhỏ hơn con đực. Sừng của con đực to và cong, dài khoảng từ 80 đến 165 cm, còn sừng của con cái chỉ dài từ 60 đến 100 cm. Đặc biệt, con đực có thân hình đẹp, cổ mạnh mẽ, lông trên cổ dựng đứng, chân chắc chắn, thể hiện sức mạnh. Con non chỉ có thể phân biệt giới tính khi đạt ba tuổi. Con đực có màu sắc tối hơn và trên đỉnh đầu có sừng lớn. Lông của chúng ngắn và thô, con đực có màu xám đậm hoặc đen; còn con cái và con non (dưới ba tuổi) có màu nâu đỏ. Về phân loài chỉ định, con cái cũng sẽ đổi sang màu nâu đen sau khi trưởng thành. Vùng lông trên lông mày và hàm có những sọc trắng rõ rệt. Bụng và mông có màu trắng. Con non dưới hai tháng có màu nâu nhạt và có những đốm không rõ rệt. Chúng có cơ thể khỏe mạnh; chân thích hợp cho việc chạy dài; có 4 ngón chân, nhưng ngón bên đã thoái hóa hơn so với các loài hưu; thích hợp cho việc chạy; răng cửa và răng nanh đã thoái hóa, nhưng vẫn giữ lại răng cửa bên dưới, răng nanh đã chuyển thành hình dạng răng cửa, ba cặp răng cửa hướng về phía trước và có hình dạng giống cái xẻng, do chế độ ăn bao gồm những thực vật tương đối cứng, răng hàm và răng cối có chiều cao lớn, men răng có nếp gấp, sau khi mài mòn bề mặt răng hình thành các đường vân phức tạp, thích hợp để ăn cỏ; dạ dày có 4 khoang, chức năng nhai lại hoàn hảo; cả hai giới đều có sừng hình ống, hình thành từ sự phát triển của xương trán và có hình dáng đối xứng, không phân nhánh, bên trong rỗng, được bao bọc bởi lớp bao sừng có thể rụng (vỏ sừng), bao phủ trên xương sừng (xương rỗng), và lớn lên theo sự phát triển của xương rỗng; sừng không có dây thần kinh và mạch máu, sau khi bỏ đi được không thể tái sinh; thường dừng phát triển ở một mức nhất định và không thay vỏ sừng.